Thời điểm hiện tại đang có nhiều yếu tố nguy cơ khiến bệnh cúm gia cầm trở lên phức tạp hơn rất nhiều so với trước đây. Để giảm thiểu thiệt hại do bệnh cúm gia cầm gây ra cần sự vào cuộc quyết tâm của cả xã hội, đặc biệt là hệ thống nhân y và thú y.
1. Một số thông tin chung
Bệnh cúm, cúm A và cúm gia cầm
Virus cúm (nói chung) được chia thành 04 type là A, B, C và D. Virus cúm type A có tính đa vật chủ, gây bệnh trên nhiều loài động vật,là những virus có thể gây ra đại dịch cúm. Virus cúm type B và C gây ra bệnh cúm mùa ở người, thường chỉ gây triệu chứng nhẹ và không gây đại dịch. Virus cúm type D chủ yếu gây bệnh ở loài nhai lại và chưa thấy báo cáo gây bệnh ở người.
Thế nào là H và N? Clade là gì?
Virus cúm type A chia thành những phân nhóm (subtype) dựa vào hai protein bề mặt là protein H (hemagglutinin) và N (neuraminidase). Hiện tại người ta biết đến có 18 loại H và 11 loại N, nếu tổ hợp chập 2 giữa N và H sẽ có tới 198 phân nhóm cúm type A và trên thực tế đã ghi nhận 131 phân nhóm xuất hiện trong tự nhiên. Khi phân loại nhỏ hơn phân nhóm (subtype) dựa vào sự khác biệt về gen, chúng ta có khái niệm “clade” – nhánh và “sub-clade” – phân nhánh (đôi khi có tài liệu gọi là “group” và “sub-group”).
Ở Việt Nam đã và đang lưu hành loại virus cúm gia cầm nào?
Theo những dữ liệu được công bố bởi Cục Thú y và nghiên cứu của các nhà khoa học thì ở Việt Nam đã từng xuất hiện virus cúm gia cầm độc lực cao H5N1, H5N2, H5N6 và virus cúm gia cầm độc lực thấp là H6N1 và H9N2.
H5N1: Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và PTNT, Việt Nam dịch cúm gia cầm xuất hiện từ cuối tháng 12/2003, tại trại gà giống của công ty C.P đóng tại xã Thuỷ Xuân Tiên, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây (cũ). Cùng thời gian này, dịch cũng xảy ở trại gà công ty Jafa tại Vĩnh Phúc sau đó lan ra các tỉnh phía Bắc và xuất hiện ở hai tỉnh phía Nam là Tiền Giang, Long An.
Tiếp theo dịch lây lan nhanh chóng sang các tỉnh khác. Đã có 57/64 tỉnh thành có dịch cúm gia cầm vào năm 2004. Diễn biến dịch cúm A/H5N1 ở Việt nam theo từng năm (từ năm 2004 đến nay) có sự khác nhau. Giai đoạn cao điểm là vào tháng 2/2004 (bình quân mỗi ngày có khoảng 15-20 huyện phát sinh ổ dịch mới. Số gia cầm phải tiêu huỷ hàng ngày từ 2-3 triệu con, ngày cao điểm nhất phải tiêu huỷ 4 triệu con (Nguyễn Văn Cảm, 2011).
Từ năm 2004-2014, Việt Nam đã ghi nhận 127 người mắc bệnh, trong đó có 64 người tử vong (chiếm 50,4%) vì mắc bệnh Cúm A/H5N1 (Cục Thú y, 2019). Kể từ khi xuất hiện ở Việt Nam, virus cúm gia cầm H5N1 đã xuất hiện những clade khác nhau như clade 1, clade 2.3.4, clade 2.3.2.1 a, b và c khiến hiệu quả của vắc xin không đạt được như mong đợi (Văn Đăng Kỳ, 2012).
H5N2: Tháng 8 năm 2012, Nishi và cộng sự đã phân lập được virus cúm gia cầm H5N2 ở gà bán tại một số chợ gia cầm sống khu vực miền Bắc Việt Nam (Nishi và cộng sự, 2013). Từ đó đến nay, không có nghiên cứu hoặc ổ dịch nào phát hiện virus cúm gia cầm H5N2 ở Việt Nam
H5N6: Dịch cúm gia cầm do virus H5N6 phát hiện ở Việt Nam vào tháng 4 năm 2014 tại Lạng Sơn và sau đó còn phát hiện ở nhiều tỉnh/thành khác thuộc miền Bắc và miền Trung. Lần đầu tiên dịch cúm gia cầm ở Việt Nam được phát hiện do 1 subtype khác, không phải H5N1 đã làm dấy lên những quan tâm về tỉ lệ nhiễm, nguồn gốc và sự tiến hóa của virus này.
Trong 2 năm (2014-2015), qua thu thập và phân tích 18 mẫu virus cúm A/H5N6 từ các ổ dịch trên gia cầm ở các tỉnh thuộc miền Bắc và miền Trung cho thấy, các virus H5N6 Việt Nam có cùng kiểu phân nhánh ở tất cả các gene thành 2 dòng Tứ Xuyên và Giang Tây, Trung Quốc. Sự xuất hiện virus H5N6 là do sự tái tổ hợp của các virus cúm khác nhau, với gene HA từ virus cúm gia cầm cúm A/H5, clade 2.3.4.4, gene NA có nguồn gốc từ các virus cúm H6N6, các gene nội PB2, PB1, NP, PA, M, NS có nguồn gốc từ virus H5N1.
Tuy nhiên, khác với các virus H5N6 dòng Tứ Xuyên, phần lớn các virus H5N6 dòng Giang Tây có sự thay thế gene PB2 từ các virus H6N6. Ngoài ra, dịch cúm H5N6 ở Việt Nam năm 2014 chủ yếu do dòng Tứ Xuyên, nhưng từ năm 2015 lại chủ yếu do dòng Giang Tây và có xu hướng thay thế các virus dòng Tứ Xuyên.
Các kết quả này cũng gợi ý rằng sự tái tổ hợp liên tiếp đã làm xuất hiện những virus cúm A/H5N6 mới và tiềm ẩn nguy cơ những đợt dịch cúm lớn do virus A/H5N6 gây ra ở Việt Nam. (Nguyễn Đăng Thọ và cộng sự, 2017). Đặc biệt bệnh cúm gia cầm do virus cúm A/H5N6 có thể lây sang người và gây tử vong. Chính vì thế ở nơi có ổ dịch cúm , cần chú ý giám sát phát hiện và can thiệp kịp thời những ca bệnh ở người khi có dấu hiệu viêm đường hô hấp cấp hoặc viêm phổi mà bệnh nhân có tiền sử tiêp xúc với gia cầm bệnh .
Một số subtype khác: Ngoài những virus cúm type A độc lực cao, tại Việt Nam còn lưu hành một số virus cúm type A độc lực thấp như H6N1 và H9N2. Theo báo cáo của Hotta và cộng sự (2012), từ 1488 mẫu vịt thu thập vào năm 2009, nhóm nghiên cứu đã chẩn đoán và phân lập được 21 mẫu dương tính với virus cúm H6N1 và 01 mẫu dương tính với H9N2. Ở một nghiên cứu sau đó của Dương Mai Thúy và cộng sự (2016), trong số 468 mẫu dương tính cúm type A thu thập từ 7 tỉnh phía Bắc Việt Nam, có 422 mẫu dương tính với H9 và 22 mẫu dương tính với H5. Kết quả giải trình tự một số chủng đại diện cho thấy có sự hiện diện của virus cúm type A/H9N2 và A/H5N6. Hiện tại ở Việt Nam chưa thấy có báo cáo về sự xuất hiện của virus cúm H7N9.
2. Bệnh cúm gia cầm do virus cúm A/H5N6
Kể từ khi phát hiện cúm gia cầm H5N6 tại Việt Nam ở tỉnh Lạng Sơn, virus cúm H5N6 đã lưu cữu và gây bệnh cho đàn gia cầm liên tục qua các năm. Tỷ lệ dương tính cúm H5N6 trong những mẫu swab tại chợ gia cầm trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn là 4,52% (Nguyễn Thị Lan và cộng sự, 2017).
Kết quả giám sát tại 26 tỉnh thành phố có tỷ lệ dương tính với virus cúm A/H5N6 là 1,82% (Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2020). Virus cúm gia cầm H5N6 có sự đa dạng về các clade gồm cả clade 2.3.4.4.B và 2.3.4.4C (Phạm Hồng Kỳ và cộng sự, 2018). Từ đầu năm 2020 đến ngày 13/02/2020 cả nước có 10 ổ dịch cúm gia cầm do virus cúm A/H5N6 gây ra, buộc phải tiêu hủy 43000 gia cầm tại 5 tỉnh, thành phố gồm Bắc Ninh, Hà Nội, Quảng Ninh, Thanh Hóa và Nghệ An.
Tại Việt Nam hiện đang sử dụng một số loại vắc xin phòng bệnh cúm gia cầm trong đó có vắc xin Navet-Vifluvac, vắc xin Re-5 và vắc xin Re-6 nhập trừ Trung Quốc. Kết quả xét nghiệm huyết thanh gà sau tiêm phòng bằng phương pháp HI, dùng kháng nguyên đồng chủng với kháng nguyên trong vacxin cho thấy: vacxin Navet-Vifluvac kích thích gà tạo kháng thể với hiệu giá 4,3log2; với vacxin Re-5, hiệu giá kháng thể là 7,8log2 và với vacxin Re-6, hiệu giá kháng thể là 5,3log2. Sau khi công cường độc bằng virus A/H5N6 clade 2.3.4.4B, cả 3 loại vắc xin đều có khả năng bảo hộ 70% đối với gà được tiêm phòng. Gà của tất cả 3 nhóm tiêm vacxin đều bài thải virus trong 10 ngày sau khi công cường độc (Nguyễn Văn Lâm và cộng sự, 2018).
Mặc dù chưa ghi nhận ca mắc cúm A/H5N6 ở người tại Việt Nam nhưng nguy cơ của sự lây nhiễm luôn hiện hữu. Tsunekuni và cộng sự (2019) đã phân lập virus cúm A/H5N6 từ thủy cầm tại Long An và cho biết chủng virus phân lập được này (ký hiệu A/Muscovy duck/Long An/AI470/2018; AI470) có sự tương đồng từ 99,4 đến 99,9% với chủng A/Guangxi/32797/2018, một chủng virus cúm gia cầm lây nhiễm sang người ở Trung Quốc năm 2018.
Thời điểm hiện tại đang có nhiều yếu tố nguy cơ khiến bệnh cúm gia cầm trở lên phức tạp hơn rất nhiều so với trước đây như: (1) Mùa đông xuân với khí hậu lạnh và thay đổi liên tục làm sức đề kháng của động vật giảm, virus tồn tại lâu ở ngoài môi trường có cơ hội xâm nhập và gây bệnh; (2) Tập quán ăn thịt gà được giết mổ trực tiếp tại chợ vẫn duy trì khiến virus có điều kiện reo rắc và nhiễm từ động vật sang người; (3) Cùng một thời điểm có sự xuất hiện của nhiều type và subtype virus như H5N1, H5N6 với các clade đa dạng khiến virus có thể trao đổi, đột biến và gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng. Để giảm thiểu thiệt hại do bệnh cúm gia cầm gây ra cần sự vào cuộc quyết tâm của cả xã hội, đặc biệt là hệ thống nhân y và thú y.
PGS TS Nguyễn Bá Hiên
TS Đặng Hữu Anh
(Học viện Nông nghiệp Việt Nam) tổng hợp