Giá đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên giao dịch ngày 12/8 tăng 14,75 cent, ở mức 1.535 cent/bushel, giảm 2,50 cent so với mức cao nhất và tăng 52,0 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 11 chốt phiên tăng 5,75 cent, ở mức 1.454,25 cent/bushel, tăng 39,0 cent so với mức thấp nhất và giảm 10,50 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên tăng 8,20 usd, ở mức 464,70 usd/short tấn, giảm 3,40 usd so mức cao nhất và tăng 9,10 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên tăng 0,23 cent, ở mức 69,53 cent/pound, giảm 0,27 cent so với mức cao nhất và tăng 1,43 cent so với mức thấp nhất.
Giá đậu nành giảm ngay sau khi báo cáo Cung cầu Nông nghiệp được công bố, nhưng một số hợp đồng kỳ hạn sau đó đã phục hồi vào cuối phiên sau một số điều chỉnh kỹ thuật.
Bộ NN Mỹ tăng dự báo sản lượng đậu nành cao hơn so với kỳ vọng trước khi báo cáo, nằm trong mức cao của phạm vi ước tính của thị trường, ở mức 123,31 triệu tấn. Dự báo tồn trữ cuối năm 2022-2023 cũng tăng lên mức 6,67 triệu tấn. Về phía nhu cầu, Bộ NN Mỹ tăng dự báo xuất khẩu lên mức 58,65 triệu tấn.
Trên toàn cầu, Bộ NN Mỹ đưa mức tồn trữ cuối năm 2022-2023 ở mức 101,4 triệu tấn, trên mức phạm vi kỳ vọng của thị trường; tăng gần 2 triệu tấn so với tháng trước và phản ánh lượng tồn trữ đầu vụ cao hơn, trong khi sản lượng ở Mỹ và Trung Quốc cũng cao hơn. Tồn trữ cuối kỳ năm 2021-2022 giảm xuống 89,73 triệu tấn, bằng với các ước tính của thị trường.
Bắp
Để bù đắp cho sản lượng thấp hơn, Bộ NN Mỹ đã tăng mức tồn trữ vụ cũ lên 508.000 tấn, lên mức 38,86 triệu tấn. Tổng lượng sử dụng trong nước đạt 308,61 triệu tấn, giảm so với tháng 7. Xuất khẩu được dự báo ở mức 60,33 triệu tấn, giảm 635.000 tấn so với tháng Bảy. Điều đó đưa mức tồn trữ cuối kỳ ở mức 35,26 triệu tấn, giảm 2,08 triệu tấn so với tháng 7.
Trên toàn cầu, Bộ NN Mỹ giảm lượng tồn trữ đầu kỳ 0,44 triệu tấn, xuống mức 311,84 triệu tấn. Sản lượng toàn cầu giảm 6,29 triệu tấn, xuống mức 1.179,61 triệu tấn. Xuất khẩu toàn cầu tăng 3,05 triệu tấn. Điều đó đưa lượng tồn trữ cuối kỳ ở mức 306,68 triệu tấn, giảm 6,26 triệu tấn.
Bộ NN Mỹ cũng giữ nguyên dự báo về sản lượng của Brazil năm 2021-2022 ở mức 116 triệu tấn. Sản lượng của Argentina cũng được giữ ở mức 53 triệu tấn.
Lúa mì
Giá lúa mì đã không thể tìm thấy bất kỳ động lực tích cực nào vào phiên cuối tuần, với hầu hết các hợp đồng kỳ hạn chốt phiên giảm khoảng 0,75% sau một đợt bán kỹ thuật sau báo cáo.
Bộ NN Mỹ điều chỉnh nhu cầu đối với lúa mì, khiến lượng tồn trữ cuối kỳ giảm xuống còn 16,60 triệu tấn. Sản lượng toàn bộ các loại lúa mì của Mỹ được dự báo ở mức 48,45 triệu tấn, tăng chưa tới 1% so với tháng 7 và tăng 8% so với năm 2021. Sản lượng lúa mì vụ Đông được dự báo là 32,66 triệu tấn, giảm chưa tới 1% so với tháng 7, nhưng tăng 6% so với năm 2021.
Trên toàn cầu, tồn trữ cuối kỳ giảm 0,2 triệu tấn, xuống còn 267,34 triệu tấn, nhưng có một vài thay đổi về tồn trữ và ước tính sản lượng. Lượng tồn trữ đầu kỳ giảm 3,75 triệu tấn, nhưng sản lượng tăng 8 triệu tấn. Bộ NN Mỹ cho rằng mức tăng này do sản lượng cao hơn ở Nga, Úc và Trung Quốc. (Sản lượng của Nga tăng lên 88 triệu tấn, so với ước tính 81,5 triệu tấn trước đó.)
Thêm hai tàu chở lúa mì và bắp nữa đã khởi hành từ các cảng của Ukraine vào đầu ngày thứ Sáu, nâng tổng số tàu xuất qua Biển Đen trong tháng này lên 14 chiếc. Đây là lần đầu tiên lúa mì được xuất đi, với khoảng 3.050 tấn được chuyển đến Thổ Nhĩ Kỳ. Một tàu khác chứa 60.960 tấn bắp được xuất đến Iran.
Chi tiết báo cáo: tại đây
www.qdfeed.com