Giá đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên giao dịch ngày 12/8 giảm 12,50 cent, ở mức 971,25 cent/bushel, giảm 17,50 cent so với mức cao nhất và tăng 11,75 cent so với mức thấp nhất. Giá kỳ hạn tháng 12 chốt phiên giảm 16,50 cent, ở mức 986 cent/bushel, tăng 10,50 cent so với mức thấp nhất và giảm 16,50 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên giảm 5,70 usd, ở mức 306 usd/short tấn, giảm 9,40 usd so mức cao nhất và tăng 2,80 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên giảm 0,94 cent, ở mức 41,48 cent/pound, giảm 0,94 cent so với mức cao nhất và tăng 0,25 cent so với mức thấp nhất.
Giá đậu nành giảm lại sau một đợt bán kỹ thuật khi báo cáo Cung cầu tháng 8 của Bộ NN Mỹ cho thấy ước tính sản lượng vụ mới của Mỹ và tồn trữ tăng cao hơn.
Bộ NN Mỹ cho biết các nhà xuất khẩu tư nhân đã xuất bán 300.000 tấn đậu nành cho một quốc gia chưa công bố. Trong đó 100.000 tấn sẽ được giao trong năm tiếp thị 2023/2024 và 200.000 tấn sẽ được giao trong năm tiếp thị 2024/2025.
Sản lượng đậu nành ước tính ở mức cao kỷ lục 4,589 tỷ giạ, cao hơn mức ước tính trước báo cáo, trên cơ sở ước tính năng suất tăng lên 53,2 giạ/mẫu Anh.
Tồn trữ cuối kỳ cho vụ mùa mới, năm tiếp thị 2024-2025 được dự báo ở mức 560 triệu giạ, cao nhất trong 6 năm. Về phía nhu cầu, nhu cầu ép dầu không thay đổi trong khi dự báo xuất khẩu tăng 25 triệu giạ. Lượng sử dụng tăng lên 4 triệu giạ, dẫn đến tổng nhu cầu tăng 29 triệu giạ so với tháng trước.
Trên toàn cầu, tồn trữ cuối kỳ cho niên vụ 2024-2025 tăng vọt cùng với ước tính vụ mùa ở Mỹ cao hơn, ở mức 134,3 triệu tấn. Ước tính của Bộ NN Mỹ vượt xa các dự đoán thương mại trước báo cáo.
Bộ NN Mỹ giữ nguyên ước tính sản lượng đậu nành năm 2023-2024 của Brazil ở mức 153 triệu tấn, bất chấp sự khác biệt kéo dài với dự báo của CONAB. Ước tính sản lượng của Argentina giảm 0,5 triệu tấn, xuống còn 49 triệu tấn.
Bắp
Giá bắp tăng sau một đợt mua kỹ thuật do số liệu xuất khẩu lạc quan từ Bộ NN Mỹ, cùng với thông tin về một giao dịch xuất bán lớn cho các điểm đến chưa xác định được công bố vào buổi sáng.
Bộ NN Mỹ cho biết các nhà xuất khẩu tư nhân đã xuất bán 165.000 tấn bắp cho các điểm đến chưa xác định, giao hàng trong năm tiếp thị 2024/2025.
Bộ NN Mỹ cắt giảm diện tích gieo trồng từ xuống 800.000 mẫu Anh, còn 90,7 triệu mẫu Anh; đồng thời cũng giảm diện tích thu hoạch dự kiến xuống 700.000 mẫu Anh, xuống còn 82,7 triệu mẫu Anh. Tuy nhiên, năng suất tăng 2,1 giạ/mẫu Anh lên mức kỷ lục 183,1 giạ/mẫu Anh. Theo đó, sản lượng bắp dự kiến đạt 15,147 tỷ giạ, tăng 47 triệu giạ so với tháng 7.
Về phía cầu, tổng lượng dùng cho thức ăn và sử dụng khác ở mức 5,825 tỷ giạ. Sử dụng cho ethanol được dự báo ở mức 5,45 tỷ giạ. Tổng mức sử dụng trong nước được dự báo là 12,665 triệu giạ, với mức giảm 15 triệu giạ trong sử dụng Thực phẩm, Hạt giống & Công nghiệp.
Xuất khẩu cho niên vụ 2024-2025 được dự báo đạt 2,3 tỷ giạ, tăng 75 triệu giạ so với tháng 7. Tồn trữ cuối kỳ cho vụ mùa mới dự kiến ở mức 2,073 tỷ giạ, giảm 24 triệu giạ so với tháng 7.
Tồn trữ cuối năm 2023-2024 được chốt ở mức 1,867 tỷ giạ, giảm 10 triệu giạ.
Trên toàn cầu, sản lượng năm 2024-2025 ở mức 1.219,82 triệu tấn, giảm 4,97 triệu tấn so với tháng 7. Tồn trữ cuối kỳ toàn cầu được chốt ở mức 310,17 triệu tấn, giảm 1,47 triệu tấn. Bộ NN Mỹ ước tính sản lượng bắp năm 2024-2025 của Brazil ở mức 127 triệu tấn và Argentina ở mức 51 triệu tấn.
Lúa mì
Giá lúa mì biến động nhưng hầu hết đều giảm trong bối cảnh điều chỉnh kỹ thuật không đồng đều khi báo cáo cung cầu được công bố.
Bộ NN Mỹ hạ dự báo sản lượng lúa mì xuống 1,98 tỷ giạ, giảm 26 triệu giạ, sau khi giảm diện tích gieo trồng xuống 46,3 triệu mẫu Anh và diện tích thu hoạch xuống 37,9 triệu mẫu Anh. Trên toàn quốc, năng suất dự kiến đạt trung bình 52,2 giạ/mẫu Anh.
Sản lượng lúa mì vụ Đông được dự báo đạt 1,36 tỷ giạ, với năng suất 53,2 giạ/mẫu Anh. Sản lượng lúa mì cứng đỏ vụ Đông đạt 776 triệu giạ, tăng 2% so với tháng trước. Sản lượng lúa mì đỏ mềm vụ Đông giảm chưa đến 1% so với tháng trước, ở mức 342 triệu giạ. Lúa mì trắng cứng vụ Đông được dự báo ở mức 19,3 triệu giạ và trắng mềm ở mức 224 triệu giạ.
Tồn trữ lúa mì giảm 28 triệu giạ, xuống còn 828 triệu giạ, do ước tính sản lượng thấp hơn và việc sử dụng hạt giống tăng nhẹ.
Trên toàn cầu, sản lượng lúa mì thế giới năm 2024-2025 được dự báo ở mức 798,28 triệu tấn, tăng 2,09 triệu tấn so với tháng 7. Xuất khẩu toàn cầu dự kiến đạt 214,86 triệu tấn, tăng 1,97 triệu tấn so với tháng trước. Tồn trữ lúa mì toàn cầu cuối kỳ dự kiến ở mức 256,62 triệu tấn, giảm 0,62 triệu tấn. Sản lượng lúa mì của Nga dự kiến ở mức 83 triệu tấn và của Liên minh châu Âu là 128 triệu tấn.
www.qdfeed.com