Phiên cuối tuần chứng kiến ​​một đợt bán tháo trên diện rộng từ cổ phiếu, năng lượng, chăn nuôi đến ngũ cốc. Giá bắp giảm hơn 1,75%, đậu nành giảm 0,6% và một số kỳ hạn lúa mì giảm gần 2%. Tuy nhiên, nếu tính trong cả tuần thì cả ba mặt hàng này vẫn ở mức tăng ròng.

Giá đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên giao dịch ngày 06/9 giảm 18,50 cent, ở mức 1005 cent/bushel, giảm 26,25 cent so với mức cao nhất và tăng 1,50 cent so với mức thấp nhất. Giá kỳ hạn tháng 01/2025 chốt phiên giảm 19,0 cent, ở mức 1022,50 cent/bushel, tăng 1,25 cent so với mức thấp nhất và giảm 26,50 cent so với mức cao nhất.

Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 10 chốt phiên giảm 1,60 usd, ở mức 320,80 usd/short tấn, giảm 7,70 usd so mức cao nhất và tăng 0,60 usd so với mức thấp nhất.

Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 10 chốt phiên giảm 1,48 cent, ở mức 40,21 cent/pound, giảm 1,50 cent so với mức cao nhất và tăng 0,07 cent so với mức thấp nhất.

Image

Trong tuần kết thúc vào ngày 29/8, lượng xuất khẩu đậu nành giảm 8,4 triệu giạ (228.000 tấn) trong giai đoạn 2023-2024 và tăng 60,9 triệu giạ (1.658.700 tấn) trong giai đoạn 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 18 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,7 tỷ giạ của Bộ NN Mỹ trong năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 1,632 tỷ giạ trong giai đoạn 2023-2024 và giảm 15% so với một năm trước.

Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 40.900 tấn trong giai đoạn 2023-2024 và 434.700 tấn trong giai đoạn 2024-2025.

Lượng xuất khẩu dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 1.900 tấn trong giai đoạn 2023-2024 và 3.300 tấn trong giai đoạn 2024-2025.

Xuất khẩu đậu nành của Brazil trong tháng 7 đạt tổng cộng 8,04 triệu tấn, và là mức thấp nhất trong 6 tháng, giảm 4,12% so với cùng kỳ năm ngoái. Một cuộc thăm dò của Reuters với 10 tổ chức phân tích cho ước tính sản lượng đậu nành niên vụ 2024/25 của Brazil có thể đạt 6,173 tỷ giạ (168 triệu tấn), một mức cao kỷ lục và vượt quá 14% sản lượng của mùa trước. Diện tích gieo trồng dự kiến ​​sẽ tăng 1,3%, nhưng là tốc độ tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2006/07.

Bắp

Giá bắp giảm theo các mặt hàng khác sau một đợt bán kỹ thuật, cho dù số liệu xuất khẩu hàng tuần rất khả quan được công bố vào buổi sáng.

Trong tuần kết thúc vào ngày 29/8, một lượng xuất khẩu 6,8 triệu giạ (173.100 tấn) bị hủy trong giai đoạn 2023-2024 và tăng lượng bán mới 71,7 triệu giạ (1.822.500 tấn) trong giai đoạn 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 41,8 triệu giạ, cao hơn nhiều so với mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 2,250 tỷ giạ của Bộ NN Mỹ trong năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 2,126 tỷ giạ trong giai đoạn 2023-2024 và tăng 37% so với một năm trước.

Image

Sản lượng ethanol ở mức 1,061 triệu thùng/ngày trong tuần kết thúc vào ngày 30/8, giảm 10.000 thùng/ngày so với tuần trước đó. Tồn trữ ethanol giảm 218.000 thùng, xuống 23,354 triệu thùng.

Xuất khẩu bắp của Brazil trong tháng 8 đạt tổng cộng 6,063 triệu tấn, giảm 35,25% so với cùng kỳ năm ngoái và là lượng xuất khẩu trong tháng 8 thấp nhất kể từ năm 2020 và thấp thứ hai trong 6 năm qua.

Lúa mì

Giá lúa mì cũng giảm theo các loại hàng hóa khác do bán kỹ thuật. Tình trạng khô hạn ở Biển Đen, Nam Mỹ và Đồng bằng phía Nam ở Hoa Kỳ đã hạn chế đà giảm.

Trong tuần kết thúc vào ngày 29/8, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 12,5 triệu giạ (340.000 tấn) trong giai đoạn 2024-2025 và bị hủy 0,4 triệu giạ (10.500 tấn) trong giai đoạn 2025-2026 . Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 23,4 triệu giạ, cao hơn nhiều so với mức 15,9 triệu giạ cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 825 triệu giạ của Bộ NN Mỹ trong năm 2024-2025. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 378 triệu giạ trong giai đoạn 2024-2025 và tăng 31% so với một năm trước.

Sàn giao dịch Buenos Aires ước tính sản lượng lúa mì Argentina ở mức 18,5 triệu tấn bất chấp tình trạng khô hạn ở một số khu vực trọng điểm.

www.qdfeed.com