Nhiều doanh nghiệp trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản đang phải ứng trước hàng chục tỷ đồng để nộp thuế GTGT, trong khi lợi nhuận biên chỉ 1–3%. Cơ chế “thu trước – hoàn sau” cùng mức thuế suất 5% đối với hàng sơ chế khiến dòng tiền bị ứ đọng, làm giảm sức cạnh tranh của hàng Việt trên thị trường xuất khẩu.
Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) vừa có văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính kiến nghị tháo gỡ hàng loạt vướng mắc trong quá trình triển khai Luật Thuế Giá trị Gia tăng (GTGT) số 48 (có hiệu lực từ 1/7), đặc biệt đối với các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản những ngành hàng có vai trò then chốt trong nền kinh tế quốc dân.
Cụ thể, theo quy định, các sản phẩm “chưa chế biến thành sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường” bị áp thuế suất 5%. Tuy nhiên, trên thực tế, các sản phẩm nông nghiệp như cà phê, tiêu, điều, tôm, cá, gỗ nguyên liệu… chủ yếu chỉ trải qua các công đoạn sơ chế như bóc vỏ, phơi, xát, sấy… không làm phát sinh giá trị gia tăng thực chất.
Việc áp thuế GTGT 5% cho nhóm hàng hóa nêu trên là chưa phù hợp với bản chất của thuế giá trị gia tăng – vốn chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm trong quá trình sản xuất – kinh doanh. Đặc biệt, cơ chế “thu trước – hoàn sau” đang khiến các doanh nghiệp phải ứng trước một lượng vốn rất lớn cho nghĩa vụ thuế, trong khi lợi nhuận biên ở các ngành hàng này rất thấp (chỉ từ 1–3%).
Ví dụ, ngành cà phê phải tạm nộp gần 10.000 tỷ đồng thuế GTGT mỗi năm, trong khi ngành hồ tiêu phải ứng trước tới 85 triệu USD, gây áp lực tài chính nghiêm trọng lên doanh nghiệp. Điều này làm tăng giá thành xuất khẩu, khiến hàng Việt Nam mất lợi thế cạnh tranh so với các quốc gia như Brazil, Indonesia, Ấn Độ – nơi hàng nông sản thô được miễn hoặc áp thuế 0%.
Trong khi đó, Luật Thuế GTGT quy định thức ăn chăn nuôi là đối tượng không chịu thuế. Tuy nhiên, nhiều cơ quan thuế địa phương vẫn áp thuế 5% đối với nguyên liệu thức ăn chăn nuôi như ngô, cám gạo, bã bia, bột cá… khi bán ở khâu thương mại.
Cách hiểu này chưa đồng bộ với Luật Chăn nuôi và Thông tư 21/2019/TT-BNNPTNT, làm tăng chi phí sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước, tạo bất lợi cạnh tranh so với hàng nhập khẩu (không chịu thuế GTGT), đồng thời làm giảm tiêu thụ nguyên liệu nông sản nội địa.
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp phản ánh việc hoàn thuế bị kéo dài nhiều tháng, thậm chí bị từ chối vì lý do nằm ngoài khả năng kiểm soát của họ. Đặc biệt, quy định mới tại Luật Thuế GTGT yêu cầu bên bán phải “kê khai và nộp thuế” thì doanh nghiệp mới được hoàn thuế.
“Quy định này là bất hợp lý vì chuyển giao trách nhiệm của bên bán sang bên mua – người đã hoàn thành đầy đủ nghĩa vụ thuế. Trách nhiệm xác minh, kiểm tra thuộc về cơ quan thuế, không thể bắt doanh nghiệp “ngay tình” phải gánh rủi ro về việc vi phạm nghĩa vụ thuế của bên bán”, VCCI nêu rõ.
Cần áp dụng cơ chế khoan hồng
Để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, VCCI đề xuất Thủ tướng Chính phủ cần khẩn trương rà soát, sửa đổi các quy định liên quan đến phạm vi chịu thuế GTGT đối với các sản phẩm nông, lâm, thủy sản chưa qua chế biến hoặc chỉ sơ chế thông thường.
Việc áp dụng thuế suất 5% cho nhóm hàng hóa này hiện đang tạo ra gánh nặng tài chính bất hợp lý cho doanh nghiệp, không phản ánh đúng bản chất của thuế GTGT – vốn chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm trong chuỗi sản xuất.
VCCI đề nghị xem xét khôi phục (hoặc khôi phục có thời hạn) quy định “không phải kê khai, tính thuế” đối với các sản phẩm nông nghiệp sơ chế như đã từng được áp dụng tại Nghị định 209/2013 của Chính phủ.
Đồng thời, kiến nghị Chính phủ giao Bộ Nông nghiệp Môi trường chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành liên quan ban hành danh mục cụ thể các loại “sản phẩm sơ chế thông thường” cho từng ngành hàng, nhằm bảo đảm tính thống nhất trong cách hiểu và áp dụng giữa các địa phương.
Ngoài ra, VCCI kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính xây dựng cơ chế hoàn thuế tự động đối với các hồ sơ hợp lệ, không có dấu hiệu gian lận, tương tự như mô hình đã được triển khai tại một số quốc gia như Ấn Độ. Mặt khác, cần phát triển hệ thống dữ liệu điện tử liên thông giữa cơ quan thuế, hải quan và doanh nghiệp để hỗ trợ quá trình xác thực, đối chiếu nhanh chóng và chính xác.
Việc số hóa quy trình hoàn thuế không chỉ giúp tiết kiệm thời gian, chi phí cho doanh nghiệp mà còn hỗ trợ cơ quan quản lý tăng hiệu quả giám sát, giảm áp lực nhân lực và phòng chống gian lận thuế hiệu quả hơn.
Đăc biệt, cần điều chỉnh quy định liên quan đến điều kiện hoàn thuế theo hướng loại bỏ yêu cầu doanh nghiệp chỉ được hoàn thuế khi nhà cung cấp đã kê khai, nộp thuế. Đây là một điều kiện không hợp lý, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp bị từ chối hoàn thuế do lỗi của bên thứ ba, mặc dù đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thanh toán, lưu trữ chứng từ và kê khai hợp lệ.
“Trách nhiệm quản lý nghĩa vụ thuế của người bán phải thuộc về cơ quan thuế, không thể chuyển giao rủi ro cho người mua. Quy định này hiện không chỉ gây bức xúc trong cộng đồng doanh nghiệp mà còn tiềm ẩn nguy cơ làm suy giảm niềm tin vào hệ thống pháp luật thuế”, VCCI cho biết.
Cuối cùng, cần rà soát lại toàn bộ hệ thống xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế theo hướng phân loại mức độ vi phạm và áp dụng hình thức xử lý hợp lý, nhân văn, đặc biệt với doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, hộ kinh doanh mới chuyển đổi. Trong đó, mức xử phạt hiện nay từ 5 đến 8 triệu đồng cho các sai sót mang tính kỹ thuật, hành chính – như chậm kê khai, sai mã hợp đồng – là quá cao và tạo áp lực không đáng có.
“Cần áp dụng cơ chế khoan hồng đối với vi phạm lần đầu, miễn phạt đối với sai sót nhỏ dưới ngưỡng 50.000 đồng nhằm khuyến khích tinh thần tuân thủ tự nguyện, thay vì gây tâm lý e ngại cho người nộp thuế”, VCCI kiến nghị .
Ngọc Bảo (Doanh Nghiệp & Kinh Doanh)