Thời tiết trong ngắn hạn có mưa thuận lợi

Giá đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên giao dịch ngày 03/8 tăng 5,50 cent, ở mức 1.382 cent/bushel, giảm 15,50 cent so với mức cao nhất và tăng 6,25 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 11 chốt phiên tăng 4,0 cent, ở mức 1.325,25 cent/bushel, tăng 6,75 cent so với mức thấp nhất và giảm 12,0 cent so với mức cao nhất.

Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên tăng 3,20 usd, ở mức 427,10 usd/short tấn, giảm 7,70 usd so mức cao nhất và tăng 3,0 usd so với mức thấp nhất.

Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên giảm 0,62 cent, ở mức 64,04 cent/pound, giảm 0,71 cent so với mức cao nhất và tăng 0,49 cent so với mức thấp nhất.

Giá đậu nành biến động trái chiều sau khi thị trường cân bằng giữa sự lạc quan về nhu cầu và mức tồn trữ thấp, trước những kỳ vọng lạc quan hơn về năng suất và tiềm năng sản lượng tăng.

Bộ NN Mỹ cho biết các nhà xuất khẩu tư nhân đã xuất bán 134.000 tấn đậu nành cho Trung Quốc, giao hàng trong năm tiếp thị 2023-2024.

Trong tuần kết thúc vào ngày 27/7, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 3,3 triệu giạ (90.600 tấn) cho năm 2022-2023 và tăng 96,7 triệu giạ (2.630.700 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 12,7 triệu giạ, cao hơn một chút so với mức cần thiết hàng tuần để đạt được ước tính xuất khẩu của Bộ NN Mỹ là 1,980 tỷ giạ (53,89 triệu tấn) cho năm 2022-2023. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 1,856 tỷ giạ (50,51 triệu tấn) cho năm 2022-2023 và giảm 6% so với một năm trước.

Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần đạt 163.600 tấn cho năm 2022-2023 và 183.300 tấn cho năm 2023-2024.

Lượng xuất khẩu dầu đậu nành hàng tuần đạt 2.200 tấn cho năm 2022-2023 và 2.200 tấn cho năm 2023-2024.

CELERES ước tính sản lượng đậu nành của Brazil niên vụ 2023/24 cao kỷ lục, với 6,096 tỷ giạ (166 triệu tấn), tăng 5,5%.

Bắp

Giá bắp tiếp tục giảm khi dự báo thời tiết mới nhất cho thấy có mưa thuận lợi hơn khiến thị trường bán kỹ thuật.

Trong tuần kết thúc vào ngày 27/7, lượng xuất khẩu bắp tăng 4,2 triệu giạ (107.500 tấn) cho năm 2022-2023 và tăng 13,7 triệu giạ (348.900 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 24,7 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt được ước tính xuất khẩu của Bộ NN Mỹ là 1,650 tỷ giạ (41,91 triệu tấn) cho năm 2022-2023. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 1,452 tỷ giạ (36,88 triệu tấn) cho năm 2022-2023 và giảm 35% so với một năm trước.

Sản lượng ethanol đạt 1,067 triệu thùng/ngày trong tuần kết thúc vào ngày 28/7, giảm 27.000 thùng/ngày so với tuần trước nhưng là tuần thứ 10 liên tiếp đạt trên 1 triệu thùng/ngày. Tồn trữ ethanol giảm 368.000 thùng, ở mức 22,86 triệu thùng.

CELERES ước tính sản lượng bắp niên vụ 2023/24 của Brazil sẽ đạt 5,476 tỷ giạ (139 triệu tấn), tăng 2,7% và sẽ là một mức sản lượng cao kỷ lục.

Lúa mì

Trong tuần kết thúc vào ngày 27/7, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 15,5 triệu giạ (421.300 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 0,5 triệu giạ (13.400 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 18,6 triệu giạ, cao hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt được ước tính xuất khẩu của Bộ NN Mỹ là 725 triệu giạ (19,73 triệu tấn) cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 215 triệu giạ (5,85 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 29% so với một năm trước.

GASC của Ai Cập đã mua 360.000 tấn lúa mì, trong đó có 300.000 tấn từ Nga và 60.000 tấn từ Romania.

Nhật Bản đã thầu mua 92.500 tấn lúa mì từ Hoa Kỳ và Canada, giao hàng trong tháng 10, với 59% có nguồn gốc từ Hoa Kỳ.

www.qdfeed.com