Giá đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên giao dịch ngày 18/9 tăng 8,0 cent, ở mức 1014 cent/bushel, giảm 8,0 cent so với mức cao nhất và tăng 7,75 cent so với mức thấp nhất. Giá kỳ hạn tháng 01/2025 chốt phiên tăng 7,25 cent, ở mức 1032 cent/bushel, tăng 7,25 cent so với mức thấp nhất và giảm 8,50 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 10 chốt phiên giảm 0,10 usd, ở mức 317,90 usd/short tấn, giảm 5,50 usd so mức cao nhất và tăng 2,60 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 10 chốt phiên tăng 0,44 cent, ở mức 40,99 cent/pound, giảm 0,50 cent so với mức cao nhất và tăng 0,45 cent so với mức thấp nhất.
Giá đậu nành trải qua một phiên giao dịch biến động, nhưng chốt phiên tăng 0,75% nhờ một đợt mua kỹ thuật một phần được thúc đẩy bởi điều kiện thời tiết khô nóng ở Brazil khi nước này bắt đầu vụ gieo trồng mới.
Thời tiết ở Brazil sẽ trở thành vấn đề lớn trong hai tuần tới nếu không có mưa. Việc gieo trồng đậu nành chỉ được thực hiện chưa đầy 1% do nông dân vẫn đang chờ mưa sau khi chứng kiến tình trạng hạn hán lan rộng ở Mato Grosso và Parana.
CONAB dự kiến sản lượng đậu nành của Brazil sẽ đạt 166,28 triệu tấn trong niên vụ 2024/2025, cao hơn nhiều so với năm ngoái nhưng thấp hơn so với ước tính 169 triệu tấn từ Bộ NN Mỹ.
Trung Quốc đã trở lại sau kỳ nghỉ lễ Trung thu và có thông tin cho rằng Trung Quốc có thể sẽ mua đậu nành của Mỹ khi giá kỳ hạn trong nước tăng mạnh và mức chênh lệch với giá của Mỹ ngày càng mở rộng và do lợi thế về giá của Mỹ so với giá đậu nành FOB ở Brazil là 85 đến 95 cent/bushel.
Trước báo cáo xuất khẩu hàng tuần, các nhà phân tích kỳ vọng lượng xuất bán đậu nành của cả vụ cũ và vụ mới nằm trong khoảng từ 18,4 triệu đến 60,6 triệu giạ trong tuần kết thúc vào ngày 12/9, khô dầu đậu nành sẽ dao động trong khoảng từ 50.000 đến 650.000 tấn và dầu đậu nành khoảng 20.000 tấn.
Bắp
Giá bắp không thay đổi nhiều khi chốt phiên ổn định và giảm nhẹ.
Sản lượng ethanol giảm nhẹ trong tuần tính đến ngày 13/9 sau khi đạt mức trung bình 1,049 triệu thùng/ngày. Tồn trữ ethanol tăng nhẹ trong tuần qua.
Trước báo cáo xuất khẩu hàng tuần, các nhà phân tích kỳ vọng lượng xuất bán hàng cả vụ cũ và vụ mới nằm trong khoảng từ 21,7 triệu đến 57,1 triệu giạ trong tuần kết thúc vào ngày 12/9.
Thời tiết Brazil tiếp tục là một yếu tố được quan sát trong hai tuần tới khi chủ yếu vẫn nóng và khô ở miền Trung và miền Bắc Brazil. Hạn hán ở Mato Grosso ngày càng lan rộng với độ ẩm của đất được cho là ở mức thấp chưa từng thấy trong 30 năm. Theo Ag Rural, vụ bắp đầu tiên đã được gieo trồng với gần 20% diện tích, nhưng việc gieo trồng đậu nành chậm do đất khô cằn có thể trì hoãn việc gieo trồng và thu hoạch của vụ bắp.
Brazil vẫn là nước xuất khẩu bắp mạnh khi xuất khẩu trong tháng 9 đạt 6,63 triệu tấn, theo ANEC.
Theo ước tính ban đầu của CONAB, sản lượng vụ bắp năm 2024/2025 của Brazil ước tính đạt 119,8 triệu tấn, thấp hơn dự báo 127 triệu tấn của Bộ NN Mỹ.
Lúa mì
Giá lúa mì biến động nhẹ sau một đợt điều động kỹ thuật không đồng đều.
Trước báo cáo xuất khẩu hàng tuần, các nhà phân tích dự kiến lượng xuất bán lúa mì cả vụ cũ và vụ mới nằm trong khoảng từ 11,0 triệu đến 25,7 triệu giạ trong tuần tính đến ngày 12/9.
Nhập khẩu lúa mì của Trung Quốc trong tháng 8 đạt 15,1 triệu giạ, giảm gần 51% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, nhập khẩu lúa mì cả năm 2024 cho đến nay vẫn cao hơn 9,8% so với cùng kỳ năm ngoái, với 385,4 triệu giạ.
Hạn hán ở Biển Đen tiếp tục lan rộng với thời tiết khô nóng dự kiến kéo dài đến cuối tháng 9. SovEcon tăng ước tính sản lượng lúa mì của Nga thêm 0,4 triệu tấn, lên 82,9 triệu tấn.
Tunisia thầu mua 4,6 triệu giạ lúa mì mềm và 3,7 triệu giạ lúa mì cứng với các nguồn gốc tùy chọn. Hàng sẽ được vận chuyển vào tháng 10 và tháng 11.
Jordan thầu mua 2,2 triệu giạ lúa mì với các nguồn gốc tùy chọn. Hàng sẽ được vận chuyển vào nửa cuối tháng 12.
www.qdfeed.com