Giá đậu nành kỳ hạn tháng 11 chốt phiên giao dịch ngày 19/10 tăng 4,50 cent, ở mức 1.315,50 cent/bushel, giảm 2,25 cent so với mức cao nhất và tăng 15,25 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 01/2024 chốt phiên tăng 2,50 cent, ở mức 1.331,75 cent/bushel, tăng 14,25 cent so với mức thấp nhất và giảm 2,0 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên tăng 9,20 usd, ở mức 323 usd/short tấn, giảm 1,30 usd so mức cao nhất và tăng 11,0 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên giảm 1,75 cent, ở mức 53,11 cent/pound, giảm 1,03 cent so với mức cao nhất và tăng 0,16 cent so với mức thấp nhất.
Giá đậu nành tiếp tục đà tăng khi nhận được một số hỗ kỹ thuật từ giá bắp và lúa mì. Xuất khẩu khô dầu đậu nành đạt mức cao nhất trong 20 năm đã đưa giá khô dầu đậu nành giao ngay lên mức cao nhất kể từ tháng 8. Giá dầu đậu nành giảm phiên thứ ba liên tiếp do giá dầu cọ và giá dầu thô suy yếu.
Trong tuần kết thúc vào ngày 12/10, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 50,4 triệu giạ (1.371.900 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 73,1 triệu giạ, cao hơn nhiều so với mức cần thiết hàng tuần để đạt được ước tính xuất khẩu 1,755 tỷ giạ (47,76 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 767 triệu giạ cho năm 2023-2024 và giảm 31% so với một năm trước.
Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 434.700 tấn cho năm 2023-2024 và 2.700 tấn cho năm 2024-2025.
Lượng xuất khẩu dầu đậu nành hàng tuần đạt 3.800 tấn cho năm 2023-2024 và 600 tấn cho năm 2024-2025.
Mực nước sông Amazon thấp đã khiến một số nhà xuất khẩu ngũ cốc của Brazil bắt đầu chuyển hướng một số tàu chở hàng đến các bến cảng phía Nam thay vì các điểm xếp hàng thường xuyên ở phía Bắc, mặc dù ANEC cho biết những động thái này sẽ không ảnh hưởng tiêu cực đến tổng xuất khẩu ngũ cốc của Brazil trong năm nay. ANEC ước tính xuất khẩu đậu nành của Brazil sẽ đạt mức kỷ lục 3,638 tỷ giạ (99 triệu tấn).
Bắp
Giá bắp tăng mạnh sau một đợt mua kỹ thuật được thúc đẩy bởi nhu cầu xuất khẩu tốt của Mỹ và điều kiện khô hạn đầu mùa vụ ở Brazil.
Trong tuần kết thúc vào ngày 12/10, lượng xuất khẩu bắp tăng 34,7 triệu giạ (881.300 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 0,4 triệu giạ (10.100 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 20,3 triệu giạ, dưới mức cần thiết hàng tuần để đạt được ước tính xuất khẩu 2,025 tỷ giạ (51,44 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 637 triệu giạ (16,18 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 17% so với một năm trước.
Sản lượng ethanol đạt trung bình 1,035 triệu thùng/ngày trong tuần kết thúc vào ngày 13/10, mức cao nhất trong 6 tuần qua và là sản lượng thứ tư liên tiếp trên 1 triệu thùng/ngày. Tồn trữ ethanol giảm 414.000 thùng, xuống 21,112 triệu thùng.
Trung Quốc đã phê duyệt 37 giống bắp GMO và 14 giống đậu nành GMO nhằm nỗ lực tăng năng suất nội địa và giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu ngũ cốc. Các thử nghiệm quy mô lớn đã được tiến hành trong năm nay, nhưng hiện vẫn chưa rõ liệu những giống này có được thương mại hóa vào năm 2024 hay không.
Lúa mì
Giá lúa mì tăng nhẹ do số liệu xuất khẩu hàng tuần khả quan và ảnh hưởng từ sự tăng giá của các mặt hàng khác.
Trong tuần kết thúc vào ngày 12/10, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 23,3 triệu giạ (632.800 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 1,1 triệu giạ (30.000 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 14,1 triệu giạ, cao hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt được ước tính xuất khẩu 700 triệu giạ (19,05 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 394 triệu giạ (10,72 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 5% so với một năm trước.
Trung Quốc có thể sẽ nhập khẩu nhiều lúa mì hơn không chỉ từ Mỹ mà còn từ các khu vực EU và Biển Đen, do sản lượng lúa mì của Australia dự kiến giảm hơn 40% do El Nino.
NOFI của Hàn Quốc đã thầu mua 60.000 tấn lúa mì làm thức ăn chăn nuôi, trong khi Nhật Bản cũng đang thầu mua gần 90.000 tấn lúa mì của Mỹ và Canada.
www.qdfeed.com