Giá đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên giao dịch ngày 24/8 tăng 6,25 cent, ở mức 1.365,75 cent/bushel, giảm 5,0 cent so với mức cao nhất và tăng 13,75 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 11 chốt phiên tăng 11,25 cent, ở mức 1.371,75 cent/bushel, tăng 15,25 cent so với mức thấp nhất và giảm 1,25 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên tăng 9,70 usd, ở mức 422,70 usd/short tấn, giảm 1,60 usd so mức cao nhất và tăng 8,70 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên giảm 0,61 cent, ở mức 65,54 cent/pound, giảm 0,86 cent so với mức cao nhất và tăng 0,80 cent so với mức thấp nhất.
Giá đậu nành tăng nhẹ khi số liệu xuất khẩu tốt hơn mong đợi đã thúc đẩy một số hoạt động mua kỹ thuật. Giá khô dầu đậu nành tăng hơn 2,25% do áp lực từ giá dầu đậu nành giảm.
Trong tuần kết thúc vào ngày 17/8, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 13,4 triệu giạ (364.900 tấn) cho năm 2022-2023 và tăng 44,8 triệu giạ (1.218.200 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 16,5 triệu giạ, cao hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,980 tỷ giạ (53,89 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2022-2023. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 1,893 tỷ giạ (51,52 triệu tấn) cho năm 2022-2023 và giảm 7% so với một năm trước.
Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 71.400 tấn cho năm tiếp thị 2022-2023 và 202.600 tấn cho năm tiếp thị 2023-2024.
Lượng xuất khẩu dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 1.800 tấn cho năm tiếp thị 2022-2023.
Ngày thứ hai Chuyến khảo sát mùa vụ của ProFarmer cho thấy số lượng đậu nành ở Nebraska là 1.160 hạt trên diện tích 9 foot vuông, tăng 9% so với năm ngoái, nhưng thấp hơn 3% so với mức trung bình 3 năm; ở Indiana có mức 1.310 hạt, tăng 12,4% so với năm ngoái và tăng 6,6% so với mức trung bình 3 năm.
Bắp
Giá bắp giảm do bán kỹ thuật cho dù điều kiện thời tiết tiếp tục khô nóng tại miền Trung Hoa Kỳ, cũng như số liệu xuất khẩu hàng tuần khá tốt.
Trong tuần kết thúc vào ngày 17/8, lượng xuất khẩu bắp đạt 0,9 triệu giạ (22.700 tấn) cho năm 2022-2023 và tăng 26,5 triệu giạ (673.500 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 19,5 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,625 tỷ giạ (41,28 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2022-2023. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 1,507 tỷ giạ (38,28 triệu tấn) cho năm 2022-2023 và giảm 34% so với một năm trước.
Ngày thứ 2 chuyến khảo sát mùa vụ của ProFarmer cho thấy năng suất ngô trung bình ở Indiana đạt 180,89 giạ/mẫu Anh, thấp hơn 1,54% so với mức trung bình 3 năm. Tại Nebraska, năng suất đạt trung bình 167,22 giạ/mẫu Anh, thấp hơn 2,78% so với mức trung bình 3 năm.
Hàn Quốc đã mua 68.580 tấn bắp làm thức ăn chăn nuôi, có nguồn gốc từ Nam Mỹ hoặc Nam Phi trong một thỏa thuận kín, giao hàng vào cuối tháng 12.
Lúa mì
Giá lúa mì cùng giảm lại do bán kỹ thuật. Trong tuần kết thúc vào ngày 17/8, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 14,9 triệu giạ (406.000 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 12,7 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 700 triệu giạ (19,05 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 264 triệu giạ (7,18 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 19% so với một năm trước.
Khảo sát trước báo cáo của StatsCan cho thấy sản lượng lúa mì của Canada năm 2023/2024 được dự báo dao động từ 29,3 triệu tấn đến 33,1 triệu tấn.
SovEcon nâng dự báo sản lượng lúa mì năm 2023 của Nga thêm 5 triệu tấn, lên mức 92,1 triệu tấn, cao hơn nhiều so với ước tính ngày 23/8 của Bộ NN Mỹ là 85 triệu tấn.
www.qdfeed.com