Báo cáo dự kiến diện tích gieo trồng và tồn trữ hàng quý mới nhất của Bộ NN Mỹ được công bố khiến giá bắp tăng hơn 3,5% khi diện tích dự kiến ​​thấp hơn nhiều so với ước tính của các nhà phân tích, giá lúa mì không có nhiều biến động, trong khi giá đậu nành giảm nhẹ.

Giá đậu nành kỳ hạn tháng 05 chốt phiên giao dịch ngày 28/3 giảm 1,0 cent, ở mức 1.191,50 cent/bushel, giảm 8,0 cent so với mức cao nhất và tăng 14,50 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 07 chốt phiên giảm 1,25 cent, ở mức 1.205,25 cent/bushel, tăng 14,25 cent so với mức thấp nhất và giảm 7,75 cent so với mức cao nhất.

Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 05 chốt phiên giảm 1,30 usd, ở mức 337,70 usd/short tấn, giảm 1,60 usd so mức cao nhất và tăng 4,90 usd so với mức thấp nhất.

Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 05 chốt phiên tăng 0,28 cent, ở mức 47,95 cent/pound, giảm 0,25 cent so với mức cao nhất và tăng 0,70 cent so với mức thấp nhất.

Trong tuần kết thúc vào ngày 21/3, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 9,7 triệu giạ (263.900 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 4,4 triệu giạ (120.000 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 28,9 triệu giạ, cao hơn nhiều so với mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,720 tỷ giạ của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 1,483 tỷ giạ cho năm 2023-2024 và giảm 19% so với một năm trước.

Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 127.300 tấn cho năm 2023-2024 và 1.200 tấn cho năm 2024-2025.

Lượng xuất khẩu dầu đậu nành hàng tuần đạt 6.000 tấn, giao hàng trong năm tiếp thị 2023-2024.

Diện tích gieo trồng đậu nành năm 2024 ước tính đạt 86,5 triệu mẫu Anh, tăng 3% so với năm ngoái và cao hơn một chút so với ước tính trước báo cáo. So với năm ngoái, diện tích gieo trồng tăng hoặc không thay đổi ở 24 trong số 29 bang ước tính.

Tồn trữ đậu nành tính đến ngày 01/3 đạt tổng cộng 1,845 tỷ giạ, tăng 9% so với cùng kỳ năm 2023. Tồn trữ đậu nành tại các trang trại ước tính đạt 933 triệu giạ, tăng 24% so với một năm trước. Tồn trữ ngoài trang trại ở mức 912 triệu giạ, giảm 3% so với tháng 3 năm ngoái. Lượng sử dụng từ tháng 12/2023 đến tháng 02/2024 đạt tổng cộng 1,16 tỷ giạ, giảm 13% so với cùng kỳ năm trước.

Bắp

Giá bắp tăng mạnh ngay sau báo cáo khi chứng kiến ​​diện tích gieo trồng dự kiến giảm đáng kể so với các dự đoán trước, kích thích một đợt mua kỹ thuật mạnh.

Trong tuần kết thúc vào ngày 21/3, lượng xuất khẩu bắp tăng 47,5 triệu giạ (1.206.500 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 5 triệu giạ (126.400 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 48,6 triệu giạ, cao hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 2,1 tỷ giạ của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 1,689 tỷ giạ cho năm 2023-2024 và tăng 19% so với một năm trước.

Diện tích gieo trồng bắp năm 2024 ước tính đạt 90 triệu mẫu Anh, giảm 5%, tương đương giảm 4,61 triệu mẫu so với năm ngoái. Con số này thấp hơn nhiều so với các ước tính trước báo cáo. Diện tích gieo trồng dự kiến giảm hoặc không thay đổi ở 38 trong số 48 bang ước tính.

Tồn trữ bắp tính đến ngày 01/3 đạt tổng cộng 8,347 tỷ giạ, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó tồn trữ tại trang trại là 5,08 tỷ giạ, tăng 24% so với một năm trước đó. Tồn trữ ngoài trang trại ở mức 3,268 tỷ giạ, giảm 1% so với một năm trước. Lượng sử dụng từ tháng 12/2023 đến tháng 02/2024 là 3,82 tỷ giạ, cao hơn so với mức 3,42 tỷ giạ trong cùng quý năm ngoái.

Lúa mì

Giá lúa mì biến động không đồng đều nhưng chủ yếu vẫn tăng sau khi số liệu tồn trữ và gieo trồng được công bố.

Trong tuần kết thúc vào ngày 21/3, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 12,5 triệu giạ (339.600 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 7,8 triệu giạ (212.800 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 15 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 710 triệu giạ của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 515 triệu giạ cho năm 2023-2024 và giảm 8% so với một năm trước.

Tổng diện tích gieo trồng lúa mì năm 2024 ước tính ở mức 47,5 triệu mẫu Anh, giảm 4% so với năm 2023. Diện tích gieo trồng lúa mì vụ Đông ở mức 34,1 triệu mẫu Anh, giảm 7% so với năm ngoái và giảm 1% so với ước tính trước đó. Trong đó, khoảng 24,3 triệu mẫu Anh là lúa mì đỏ cứng, 6,26 triệu mẫu Anh là lúa mì đỏ mềm và 3,59 triệu mẫu Anh là lúa mì trắng.

Diện tích dự kiến gieo ​​trồng lúa mì vụ Xuân là 11,3 triệu mẫu Anh, tăng 1% so với năm 2023. Trong đó, khoảng 10,7 triệu mẫu Anh là lúa mì đỏ cứng, diện tích lúa mì cứng dự kiến là 2,03 triệu mẫu Anh, tăng 22% so với một năm trước.

Tồn trữ lúa mì tính đến ngày 01/3 đạt tổng cộng 1,087 tỷ giạ, tăng 16% so với một năm trước. Tồn trữ tại trang trại ước tính đạt 271,9 triệu giạ, tăng 20% ​​so với tháng 3 năm ngoái. Tồn trữ ngoài trang trại ở mức 815,5 triệu giạ, tăng 14% so với một năm trước. Lượng sử dụng từ tháng 12/2023 đến tháng 02/2024 là 334 triệu giạ, thấp hơn 10% so với cùng kỳ năm trước.

Chi tiết báo cáo tại đây:
– Báo cáo diện tích gieo trồng
– Báo cáo tồn trữ Quý

CBOT sẽ không giao dịch vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh 29/3

www.qdfeed.com