Báo cáo diện tích vào ngày 28/6 của Bộ NN Mỹ đã gây ra một số thay đổi đáng kể về giá cả một số hàng hóa – đặc biệt là bắp, với diện tích gieo trồng vượt quá toàn bộ phạm vi của các dự đoán thương mại. Diện tích gieo trồng đậu nành và lúa mì vụ Đông thấp hơn một chút so với kỳ vọng của các nhà phân tích.

Giá đậu nành kỳ hạn tháng 07 chốt phiên giao dịch ngày 28/6 giảm 1,75 cent, ở mức 1.150,50 cent/bushel, giảm 16,50 cent so với mức cao nhất và tăng 4,25 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 08 chốt phiên giảm 2,75 cent, ở mức 1.133,50 cent/bushel, tăng 3,0 cent so với mức thấp nhất và giảm 22,0 cent so với mức cao nhất.

Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 07 chốt phiên giảm 0,60 usd, ở mức 360,50 usd/short tấn, giảm 3,20 usd so mức cao nhất và tăng 1,50 usd so với mức thấp nhất.

Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 07 chốt phiên tăng 0,28 cent, ở mức 43,77 cent/pound, giảm 0,13 cent so với mức cao nhất và tăng 0,44 cent so với mức thấp nhất.

Dự báo diện tích gieo trồng đậu nành là 86,1 triệu mẫu Anh, tăng 3% so với năm 2023, và nằm ở mức thấp nhất so với kỳ vọng trước báo cáo. Trong đó có 12,8 triệu mẫu Anh chưa được gieo trồng.

Tồn trữ đậu nành vào ngày 01/6 đạt tổng cộng 970 triệu giạ, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, tồn trữ tại trang trại đạt 466 triệu giạ, tăng 44% so với một năm trước. Tồn trữ ngoài trang trại ở mức 504 triệu giạ, tăng 6% so với một năm trước. Tổng lượng sử dụng từ tháng 3 đến tháng 5/2024 là 875 triệu giạ, giảm 2% so với cùng kỳ năm trước.

Bắp

Giá bắp giảm sau khi Bộ NN Mỹ bất ngờ tăng ước tính gieo trồng lên hơn 3 triệu mẫu Anh, cao hơn toàn bộ ước tính của các nhà phân tích trước báo cáo. Theo đó, tổng diện tích gieo trồng bắp đạt 91,5 triệu mẫu Anh, trong đó có 3,36 triệu mẫu Anh vẫn chưa được gieo trồng xong. Đây là diện tích gieo trồng bắp cao thứ tám kể từ năm 1944.

Tồn trữ bắp tính đến ngày 01/6 đạt tổng cộng 4,99 tỷ giạ, tăng 22% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, tồn trữ tại trang trại đạt 3,03 tỷ giạ, tăng 37% so với một năm trước đó. Tồn trữ ngoài trang trại ở mức 1,97 tỷ giạ, tăng 4% so với một năm trước. Lượng sử dụng từ tháng 3 đến tháng 5/2024 là 3,36 tỷ giạ, so với 3,29 tỷ giạ cùng kỳ năm ngoái.

Các quỹ bán khống nhiều các kỳ hạn và quyền chọn bắp trên CBOT trong tuần kết thúc vào ngày 25/6, khẳng định quan điểm giảm giá mạnh nhất từ ​​trước đến nay vào cuối tháng 6 (tổng số hợp đồng bán khống là 278 nghìn hợp đồng).

Lúa mì

Giá lúa mì biến động không đồng đều nhưng hầu hết đều giảm theo các loại hàng hóa khác sau báo cáo.

Diện tích gieo trồng lúa mì ước đạt 47,2 triệu mẫu, giảm 5% so với cùng kỳ năm ngoái. Diện tích trồng lúa mì vụ Đông ở mức 33,8 triệu mẫu Anh, thấp hơn 8% so với năm ngoái. Trong đó, 24,1 triệu mẫu là lúa mì vụ Đông đỏ cứng, 6,14 triệu mẫu là lúa mì vụ Đông đỏ mềm và 3,59 triệu mẫu là lúa mì trắng. Diện tích lúa mì vụ Xuân dự báo đạt 11,3 triệu, tăng 1% so với năm 2023. Trong đó, 10,6 triệu là lúa mì vụ Xuân đỏ cứng, còn lúa mì cứng chiếm 2,17 triệu.

Tồn trữ các loại lúa mì vụ cũ vào ngày 01/6 đạt tổng cộng 702 triệu giạ, tăng 23% so với một năm trước. Tồn trữ tại trang trại ước tính đạt 139 triệu giạ, tăng 12% so với năm ngoái. Tồn trữ ngoài trang trại ở mức 563 triệu giạ, tăng 27% so với một năm trước. Từ tháng 3 đến tháng 5/2024 lượng sử dụng là 387 triệu giạ, tăng 4% so với cùng kỳ năm trước.

Sovecon ước tính xuất khẩu lúa mì niên vụ 2024/25 của Nga sẽ đạt 1,694 tỷ giạ, thấp hơn 3,6% so với dự báo trước đó, và giảm 11,7% so với cùng kỳ năm trước. Sovecon cũng hạ ước tính sản lượng lúa mì của Nga xuống 2,965 tỷ giạ, do các thiệt hại sương giá trong tháng 5.

Chi tiết báo cáo tại đây:
– Báo cáo Tồn trữ Quý
– Báo cáo Diện tích gieo trồng

www.qdfeed.com