Giá đậu nành kỳ hạn tháng 11 chốt phiên giao dịch ngày 14/9 tăng 10,75 cent, ở mức 1.360,50 cent/bushel, giảm 4,0 cent so với mức cao nhất và tăng 14,25 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 01/2024 chốt phiên tăng 9,50 cent, ở mức 1.375,75 cent/bushel, tăng 13,50 cent so với mức thấp nhất và giảm 3,75 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 10 chốt phiên tăng 4,50 usd, ở mức 400,40 usd/short tấn, giảm 2,50 usd so mức cao nhất và tăng 4,20 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 10 chốt phiên tăng 0,06 cent, ở mức 62,90 cent/pound, giảm 0,42 cent so với mức cao nhất và tăng 0,64 cent so với mức thấp nhất.
Giá đậu nành tăng lại do mua kỹ thuật khi các nhà giao dịch quay lại tập trung vào lượng tồn trữ khan hiếm và kỳ vọng nhu cầu ép dầu đang tăng từ báo cáo của NOPA. Ước tính thương mại trước báo cáo ép dầu của NOPA ở mức 167,8 triệu giạ, so với 173,3 triệu giạ trong báo cáo tháng Bảy. Tuy nhiên, mức này vẫn cao hơn 1,4% so với cùng kỳ năm trước, và là mức ép dầu lớn thứ hai trong tháng 8 được ghi nhận.
Trong tuần kết thúc vào ngày 07/9, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 25,9 triệu giạ (703.900 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 15 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,790 tỷ giạ (48,72 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 612 triệu giạ (16,66 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 34% so với một năm trước.
Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần cho thấy có 201.600 tấn bị hủy cho năm 2023-2024 và xuất mới 454.700 tấn cho năm 2024-2025.
Lượng xuất khẩu dầu đậu nành hàng tuần cho thấy có 3.900 tấn bị hủy cho năm tiếp thị 2023-2024.
Bắp
Giá bắp giảm nhẹ do bán kỹ thuật cho dù số liệu xuất khẩu hàng tuần khá tốt.
Trong tuần kết thúc vào ngày 07/9, lượng xuất khẩu bắp tăng 29,7 triệu giạ (753.300 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 1 triệu giạ (25.400 tấn) cho năm 2024 -2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 28,6 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 2.050 tỷ giạ (52,07 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu đạt tổng cộng 439 triệu gia (11,15 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 9% so với một năm trước.
Sản lượng ethanol trong tuần tăng lên 1.039 triệu thùng/ngày, cao hơn các ước tính trước báo cáo và cao hơn 7,3% so với cùng kỳ năm 2022. Tồn trữ ethanol giảm 450.000 thùng, xuống còn 21.171 triệu thùng, trong phạm vi được mong đợi và thấp hơn 7,9% so với cùng kỳ năm trước.
Lúa mì
Giá lúa mì giảm lại do bán kỹ thuật sau khi chứng kiến một đợt tăng nhẹ vào đầu tuần.
Trong tuần kết thúc vào ngày 07/9, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 16,1 triệu giạ (437.900 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 15,1 triệu giạ, cao hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 700 triệu giạ (19,05 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 305 triệu giạ (8,30 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 19% so với một năm trước.
Thị trường cho rằng sản lượng lúa mì của Nga sẽ lớn hơn nhiều so với ước tính 85 triệu tấn của Bộ NN Mỹ. SovEcon còn dự đoán sản lượng của nước này có nhiều khả năng đạt 92 triệu tấn.
Sàn giao dịch Rosario đã giảm ước tính sản lượng lúa mì của Argentina xuống chỉ còn 15 triệu tấn, từ mức 15,6 triệu tấn trong tháng trước và ước tính đầu mùa lên tới 19,5 triệu tấn do tình trạng khô hạn đang diễn ra ở một số khu vực gieo trồng chính.
Nhật Bản đã thầu mua 4,4 triệu giạ (119.700 tấn) lúa mì thực phẩm từ Hoa Kỳ, Canada và Úc. Trong đó, có 17% có nguồn gốc từ Mỹ. Hàng sẽ được giao vào cuối tháng 10.
www.qdfeed.com