Giá đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên giao dịch ngày 19/9 giảm 0,75 cent, ở mức 1013,25 cent/bushel, giảm 5,0 cent so với mức cao nhất và tăng 6,50 cent so với mức thấp nhất. Giá kỳ hạn tháng 01/2025 chốt phiên giảm 0,75 cent, ở mức 1031,25 cent/bushel, tăng 6,25 cent so với mức thấp nhất và giảm 5,25 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 10 chốt phiên tăng 2,0 usd, ở mức 319,90 usd/short tấn, giảm 1,90 usd so mức cao nhất và tăng 3,0 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 10 chốt phiên tăng 0,76 cent, ở mức 41,75 cent/pound, giảm 0,24 cent so với mức cao nhất và tăng 1,06 cent so với mức thấp nhất.
Giá đậu nành giảm nhẹ theo giá bắp và lúa mì, mặc dù số liệu xuất khẩu tốt hơn mong đợi.
Trong tuần kết thúc vào ngày 12/9, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 64,2 triệu giạ (1.748.100 tấn) trong giai đoạn 2024-2025 và tăng 0,3 triệu giạ (8.400 tấn) trong giai đoạn 2025-2026. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 16,4 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,850 tỷ giạ của Bộ NN Mỹ trong năm 2024-2025. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 588 triệu giạ trong giai đoạn 2024-2025 và giảm 6% so với một năm trước.
Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo giảm 2.900 tấn trong giai đoạn 2023-2024 và tăng 283.000 tấn trong giai đoạn 2024-2025.
Lượng xuất khẩu dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 46.700 tấn trong giai đoạn 2023-2024 và 300 tấn trong giai đoạn 2024-2025.
ANEC dự kiến xuất khẩu đậu nành trong tháng 9 của Brazil đạt tổng cộng 5,83 triệu tấn, tăng so với ước tính 5,51 triệu tấn vào tuần trước.
Bắp
Giá bắp giảm nhẹ do bán kỹ thuật sau khi số liệu xuất khẩu gây thất vọng.
Trong tuần kết thúc vào ngày 12/9, lượng xuất khẩu bắp tăng 33,4 triệu giạ (847.400 tấn) trong giai đoạn 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 22,6 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 2,3 tỷ giạ của Bộ NN Mỹ trong năm 2024-2025. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 559 triệu giạ trong giai đoạn 2024-2025 và tăng 21% so với một năm trước.
Sản lượng ethanol là 1,049 triệu thùng/ngày trong tuần kết thúc vào ngày 13/9, giảm 31.000 thùng/ngày so với tuần trước. Tồn kho ethanol tăng 71.000 thùng lên 23,785 triệu thùng.
Lúa mì
Giá lúa mì giảm mạnh nhất do bán kỹ thuật phần lớn được thúc đẩy bởi áp lực thu hoạch và số liệu xuất khẩu kém hơn dự kiến.
Trong tuần kết thúc vào ngày 12/9, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 9 triệu giạ (246.300 tấn) trong giai đoạn 2024-2025 và tăng 0,4 triệu giạ (11.500 tấn) trong giai đoạn 2025-2026. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 23,6 triệu giạ, cao hơn nhiều so với mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 825 triệu giạ của Bộ NN Mỹ trong năm 2024-2025. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 405 triệu giạ trong giai đoạn 2024-2025 và tăng 28% so với một năm trước.
Nhật Bản thầu mua tổng cộng 123.012 tấn lúa mì từ Úc, Canada và Mỹ. Trong đó riêng từ Mỹ là 66.397 tấn.
www.qdfeed.com