Giá đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên giao dịch ngày 30/9 giảm 8,75 cent, ở mức 1057 cent/bushel, giảm 12,75 cent so với mức cao nhất và tăng 5,0 cent so với mức thấp nhất. Giá kỳ hạn tháng 01/2025 chốt phiên giảm 7,75 cent, ở mức 1075,25 cent/bushel, tăng 5,50 cent so với mức thấp nhất và giảm 12,25 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 10 chốt phiên tăng 0,60 usd, ở mức 344,30 usd/short tấn, giảm 4,10 usd so mức cao nhất và tăng 5,20 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 10 chốt phiên tăng 1,33 cent, ở mức 43,51 cent/pound, giảm 0,04 cent so với mức cao nhất và tăng 1,38 cent so với mức thấp nhất.
Giá đậu nành có một phiên giao dịch biến động nhưng chốt phiên giảm nhẹ do thị trường dường như vẫn tập trung vào tiến độ gieo trồng của Brazil và tiến độ thu hoạch của Mỹ trong bối cảnh sản lượng có thể phá kỷ lục.
Bộ NN Mỹ cho biết các nhà xuất khẩu tư nhân đã xuất bán 116.000 tấn đậu nành cho Trung Quốc, giao hàng trong năm tiếp thị 2024/2025.
Số liệu kiểm tra xuất khẩu đậu nành tăng nhẹ lên 24,8 triệu giạ, gần bằng mức ước tính của các nhà phân tích. Tổng lượng xuất bán cho năm tiếp thị 2024/25 đang thấp hơn một chút so với cùng kỳ năm ngoái, với 70,6 triệu giạ.
Tồn trữ đậu nành cuối kỳ tính đến ngày 01/9 ở mức 342 triệu giạ, nằm trong phạm vi ước tính trước báo cáo. Con số này cao hơn 29% so với năm ngoái. Tồn trự tại trang trại là 111 triệu giạ và ngoài trang trại là 231 triệu giạ. Tổng mức sử dụng từ tháng 6 đến tháng 8 đạt 628 triệu giạ, tăng 18% so với năm ngoái.
Bộ NN Mỹ điều chỉnh giảm sản lượng đậu nành năm 2023 sau khi cân đối ước tính tồn trữ cuối năm, xuất khẩu và ép dầu. Diện tích gieo trồng không thay đổi ở mức 83,6 triệu mẫu Anh, nhưng diện tích thu hoạch được thay đổi thành 82,3 triệu mẫu. Năng suất không thay đổi ở mức 50,6 giạ/mẫu Anh.
AgRural cho biết gieo trồng đậu nành của Brazil đạt 2% tính đến ngày 26/9, tăng so với mức 0,9% một tuần trước đó nhưng thấp hơn đáng kể so với tốc độ 5,2% của năm ngoái do thời tiết khô nóng ở một số vùng sản xuất trọng điểm.
Bắp
Giá bắp tăng cao hơn sau khi báo cáo tồn trữ hàng quý của Bộ NN Mỹ cho thấy ước tính tồn trữ thấp hơn 84 triệu giạ so với ước tính của các nhà phân tích, dẫn đến một đợt mua kỹ thuật vào thứ Hai.
Tồn trữ bắp tính đến ngày 01/9 đạt tổng cộng 1,76 tỷ giạ, tăng 29% so với một năm trước. Trong đó, 780 triệu giạ được trữ tại các trang trại, tăng 29% so với một năm trước đó. Tồn trữ ngoài trang trại ở mức 980 triệu giạ, tăng 30% so với năm ngoái. Lượng sử dụng từ tháng 6 đến tháng 8 ở mức 3,24 tỷ giạ, so với 2,74 tỷ giạ cùng kỳ năm trước.
Bộ NN Mỹ cũng điều chỉnh giảm sản lượng bắp niên vụ 2023-2024 xuống 1,08 triệu giạ.
Số liệu kiểm tra xuất khẩu bắp giảm nhẹ trong tuần tính đến ngày 26/9 sau khi đạt 44,9 triệu giạ, mức rất cao trong ước tính của các nhà phân tích. Tổng lượng xuất bán cho năm tiếp thị 2024/25 đang cao hơn cùng kỳ năm ngoái, với 131,1 triệu giạ.
Lúa mì
Giá lúa mì tăng nhẹ khi sản lượng các loại lúa mì bị cắt giảm, cùng với những lo ngại kéo dài về thời tiết khô nóng tại một số khu vực gieo trồng lúa mì chính trên toàn cầu.
Tồn trữ lúa mì tính đến ngày 01/9 đạt tổng cộng 1,99 tỷ giạ, tăng 12% so với năm ngoái và nằm trong phạm vi dự kiến trước báo cáo. Tồn trữ tại trang trại là 664 triệu giạ và ngoài trang trại là 1,32 tỷ giạ. Mức sử dụng từ tháng 6 đến tháng 8 là 682 triệu giạ, tăng 12% so với năm ngoái.
Tổng sản lượng lúa mì đạt 1,971 tỷ giạ vào năm 2024, tăng so với mức 1,811 tỷ giạ vào năm 2023. Năng suất lúa mì đạt 51,2 giạ/mẫu Anh, tăng từ mức 48,7 giạ/mẫu Anh của năm 2023. Tổng diện tích gieo trồng lúa mì ở mức 46,08 triệu mẫu Anh, giảm so với 49,58 triệu mẫu Anh vào năm 2023 và diện tích thu hoạch đạt 38,47 triệu mẫu Anh.
Số liệu kiểm tra xuất khẩu lúa mì giảm nhẹ sau khi đạt 19,7 triệu giạ, gần bằng mức ước tính của các nhà phân tích. Tổng lượng xuất bán cho năm tiếp thị 2024/25 vẫn cao hơn một chút so với cùng kỳ năm ngoái sau khi đạt 302,6 triệu giạ.
www.qdfeed.com