Giá đậu nành kỳ hạn tháng 01/2025 chốt phiên giao dịch ngày 05/12 tăng 10,0 cent, ở mức 993,75 cent/bushel, giảm 1,0 cent so với mức cao nhất và tăng 11,50 cent so với mức thấp nhất. Giá kỳ hạn tháng 03/2025 chốt phiên tăng 9,25 cent, ở mức 999 cent/bushel, tăng 11,25 cent so với mức thấp nhất và giảm 0,50 cent so với mức cao nhất.

Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 01/2025 chốt phiên giảm 0,80 usd, ở mức 291,10 usd/short tấn, giảm 1,90 usd so mức cao nhất và tăng 0,90 usd so với mức thấp nhất.

Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 01/2025 chốt phiên tăng 0,89 cent, ở mức 42,31 cent/pound, giảm 0,06 cent so với mức cao nhất và tăng 0,11 cent so với mức thấp nhất.

Giá đậu nành tăng nhẹ sau một phiên giao dịch không ổn định do mua kỹ thuật khi số liệu xuất khẩu hàng tuần hỗ trợ.

Image

Bộ NN Mỹ cho biết các nhà xuất khẩu tư nhân đã xuất bán 136.000 tấn đậu nành cho Trung Quốc, giao hàng trong năm tiếp thị 2024-2025.

Trong tuần kết thúc vào ngày 28/11, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 85 triệu giạ (2.312.700 tấn) trong giai đoạn 2024-2025 và 200 tấn trong giai đoạn 2025-2026. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 89,2 triệu giạ, cao hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,825 tỷ giạ của Bộ NN Mỹ trong năm 2024-2025. Cam kết xuất bán đậu nành hiện đạt tổng cộng 1,330 tỷ giạ trong giai đoạn 2024-2025 và tăng 12% so với một năm trước.

Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 276.000 tấn trong giai đoạn 2024-2025 và 4.500 tấn trong giai đoạn 2025-2026.

Lượng xuất khẩu dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 19.500 tấn, tất cả đều cho năm tiếp thị 2024-2025.

ANEC ước tính rằng xuất khẩu đậu nành của Brazil trong tháng 12 sẽ chỉ đạt 45,6 triệu giạ, thấp hơn đáng kể so với khối lượng 139,3 triệu giạ của tháng 12/2023. Xuất khẩu khô dầu đậu nành của Brazil đạt 1,44 triệu tấn trong tháng này.

Theo DERAL (Bộ Nông nghiệp tiểu bang), mùa vụ đậu nành ở Parana hiện được đánh giá ở mức 92% tốt và 8% khá.

Bắp

Giá bắp tăng sau một đợt mua kỹ thuật khi số liệu xuất khẩu hàng tuần tăng được công bố vào buổi sáng. Sự tăng giá của các mặt hàng khác cũng đã hỗ trợ thêm.

Trong tuần kết thúc vào ngày 28/11, lượng xuất khẩu bắp tăng 68,2 triệu giạ (1.732.400 tấn) trong giai đoạn 2024-2025 và tăng 0,9 triệu giạ (22.100 tấn) trong giai đoạn 2025-2026. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 41,2 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 2,325 tỷ giạ của Bộ NN Mỹ trong năm 2024-2025. Cam kết xuất bán bắp hiện đạt tổng cộng 1,346 tỷ giạ trong giai đoạn 2024-2025 và tăng 33% so với một năm trước.

Sản lượng ethanol giảm 46.000 thùng/ngày từ mức kỷ lục của tuần trước xuống còn 1,073 triệu thùng/ngày. Tồn trữ tăng 134.000 thùng, lên 23,003 triệu thùng, do xuất khẩu giảm 32.000 thùng/ngày xuống 126.000 thùng/ngày.

ANEC ước tính rằng xuất khẩu bắp của Brazil sẽ đạt 141,7 triệu giạ trong tháng 12, giảm đáng kể so với cùng kỳ năm trước.

Lúa mì

Giá lúa mì tăng mạnh nhất do lực mua tốt khi giá đã giảm xuống mức hấp dẫn vào phiên hôm trước. Cả ba thị trường lúa mì đều phản ứng với tình trạng bán quá mức và sự suy yếu của đồng đô-la Mỹ.

Trong tuần kết thúc vào ngày 28/11, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 13,9 triệu giạ (378.200 tấn) trong giai đoạn 2024-2025 và không tăng trong giai đoạn 2025-2026. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 11,8 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 825 triệu giạ của Bộ NN Mỹ trong năm 2024-2025. Cam kết xuất bán lúa mì hiện đạt tổng cộng 571 triệu giạ trong giai đoạn 2024-2025 và tăng 19% so với một năm trước.

Thời tiết tại Nga không thuận lợi và vụ mùa ngũ cốc tại đây đang có khởi đầu tệ nhất trong lịch sử với chỉ 31% ở tình trạng tốt, so với mức 74% một năm trước.

www.qdfeed.com