Thị trường nông sản trong phiên giao dịch ngày thứ Năm tiếp tục cho thấy sự phân hóa rõ rệt. Đậu nành vẫn chưa thể thoát khỏi xu hướng suy yếu do áp lực bán kỹ thuật và triển vọng nguồn cung Brazil cao kỷ lục, trong khi Bắp nhận được lực đỡ đáng kể từ xuất khẩu và sản lượng ethanol. Lúa mì hồi phục nhờ hoạt động mua bù bán khống và bắt đáy.
ĐẬU NÀNH: Áp lực bán kỹ thuật kéo dài, Brazil vẫn là cái bóng lớn
Giá đậu nành tiếp tục không tìm được điểm dừng trong phiên giao dịch ngày thứ Năm, khi thị trường lại bị cuốn vào một đợt bán kỹ thuật mới. Sự thiếu chắc chắn xoay quanh tiến độ mua hàng của Trung Quốc, cùng với triển vọng vụ thu hoạch kỷ lục tại Brazil, đã tạo áp lực giảm giá kéo dài suốt nhiều tuần qua. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 1/2026 giảm thêm 6 cent xuống 10,5225 USD/giạ, trong khi kỳ hạn tháng 3/2026 giảm 6,75 cent, còn 10,62 USD/giạ. Các sản phẩm khác trong phức hợp đậu nành diễn biến trái chiều, với khô dầu đậu nành tháng 1 tăng nhẹ 0,07%, trong khi dầu đậu nành tháng 1 giảm 0,85%.

Các nhà xuất khẩu tư nhân đã báo cáo với USDA một thương vụ bán 114.000 tấn đậu nành sang điểm đến chưa xác định cho niên vụ 2025–2026. Trong tuần kết thúc ngày 27/11/2025, USDA ghi nhận lượng bán đậu nành tăng thêm 40,6 triệu giạ cho niên vụ 2025–2026 (1,106 triệu tấn) và tăng 0,4 triệu giạ cho niên vụ 2026–2027 (khoảng 10.000 tấn). Tuy nhiên, lượng giao hàng trong tuần chỉ đạt 29,5 triệu giạ, thấp hơn mức trung bình cần thiết là 29,9 triệu giạ mỗi tuần để hoàn thành mục tiêu xuất khẩu 1,635 tỷ giạ của USDA cho cả niên vụ.
Tính đến ngày 27/11, tổng cam kết xuất khẩu đậu nành của Mỹ trong niên vụ 2025–2026 đạt 802,1 triệu giạ (xấp xỉ 21,8 triệu tấn), thấp hơn 39% so với cùng kỳ năm ngoái và vẫn chậm hơn tiến độ mà USDA kỳ vọng, trong bối cảnh tồn kho cuối kỳ của Mỹ chỉ thấp hơn chưa đầy 1% so với mức trung bình 5 năm. Trong cùng tuần, lượng xuất bán khô dầu đậu nành đạt 436.000 tấn và dầu đậu nành đạt 25.500 tấn, đều cho niên vụ 2025–2026.
Trung Quốc được cho là đã mua khoảng 257 triệu giạ đậu nành Mỹ trong những tuần gần đây (khoảng 7,0 triệu tấn), tức đã hoàn thành hơn một nửa cam kết mua khoảng 440,9 triệu giạ. Điều này có thể tạo ra một số cơ hội ngắn hạn cho thị trường, đặc biệt khi các nỗ lực đa dạng hóa thị trường xuất khẩu đậu nành của Mỹ bắt đầu cho thấy hiệu quả. Dù vậy, bóng mây từ vụ mùa kỷ lục tại Brazil vẫn là yếu tố có thể hạn chế các nhịp phục hồi trong ngắn hạn. Theo ANEC, xuất khẩu đậu nành Brazil trong tháng 12 được ước tính đạt 3,57 triệu tấn, tăng thêm 0,24 triệu tấn so với dự báo tuần trước.
BẮP: Nhu cầu xuất khẩu mạnh và sản lượng ethanol cao kỷ lục hỗ trợ giá tăng
Trái với đậu nành, giá bắp ghi nhận lực hỗ trợ rõ rệt từ nhu cầu khi một loạt số liệu bán hàng xuất khẩu tích cực kích hoạt hoạt động mua kỹ thuật, giúp một số kỳ hạn tăng tới gần 1%. Giá bắp kỳ hạn tháng 3 tăng 4 cent lên 4,4450 USD/giạ, còn kỳ hạn tháng 5 tăng 4,5 cent lên 4,5225 USD/giạ.
Trong tuần kết thúc ngày 27/11/2025, USDA báo cáo lượng xuất bán bắp tăng thêm 70,6 triệu giạ cho niên vụ 2025–2026 (khoảng 1,792 triệu tấn) và tăng 0,2 triệu giạ cho niên vụ 2026–2027 (khoảng 5.100 tấn). Lượng giao hàng đạt 74,7 triệu giạ, cao hơn đáng kể so với mức trung bình cần thiết là 59,1 triệu giạ/tuần để đạt mục tiêu xuất khẩu 3,2 tỷ giạ của USDA.
Tính đến ngày 27/11, tổng cam kết xuất khẩu bắp của Mỹ trong niên vụ 2025–2026 đạt 1,746 tỷ giạ (xấp xỉ 44,3 triệu tấn), cao hơn 30% so với cùng kỳ năm trước và vượt tiến độ kỳ vọng của USDA, dù tồn kho cuối kỳ vẫn cao hơn khoảng 40% so với mức trung bình 5 năm.
Bên cạnh đó, Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) xác nhận sản lượng ethanol nội địa đã lập kỷ lục mới trong tuần kết thúc ngày 12/12, với mức trung bình ngày đạt 1,131 triệu thùng, tiếp tục củng cố vai trò của ethanol như một trụ cột quan trọng trong nhu cầu tiêu thụ bắp.
Theo ANEC, xuất khẩu bắp Brazil trong tháng 12 được ước tính đạt 6,35 triệu tấn, tăng nhẹ 50.000 tấn so với dự báo trước đó.
LÚA MÌ: Lực mua bắt đáy xuất hiện, lúa Kansas tăng mạnh
Trên thị trường lúa mì, giá thu hút được một phần lực mua bắt đáy và ghi nhận mức tăng không đồng đều sau một phiên giao dịch kỹ thuật thiếu định hướng rõ ràng. Giá lúa mì SRW Chicago kỳ hạn tháng 3/2026 tăng 1,5 cent lên 5,0775 USD/giạ, trong khi lúa mì HRW Kansas City cùng kỳ hạn bật tăng mạnh hơn, thêm 9,25 cent lên 5,17 USD/giạ.
Trong tuần kết thúc ngày 27/11/2025, USDA ghi nhận lượng xuất bán lúa mì tăng 16,9 triệu giạ cho niên vụ 2025–2026 (khoảng 460.700 tấn), song lượng giao hàng chỉ đạt 13,3 triệu giạ, vẫn thấp hơn mức cần thiết là 16,2 triệu giạ/tuần để hoàn thành mục tiêu xuất khẩu 900 triệu giạ.
Tổng cam kết xuất khẩu lúa mì của Mỹ tính đến cuối tháng 11 đạt 696 triệu giạ (khoảng 18,9 triệu tấn), tăng 23% so với cùng kỳ năm ngoái và vượt tiến độ kế hoạch của USDA, dù tồn kho cuối kỳ vẫn cao hơn 24% so với trung bình 5 năm.
Tại châu Âu, Expansa ước tính tiềm năng sản lượng lúa mì mềm niên vụ 2026–2027 vào khoảng 4,71 tỷ giạ (xấp xỉ 128,1 triệu tấn), thấp hơn đáng kể so với sản lượng dự kiến của niên vụ 2025–2026 là 5,03 tỷ giạ (khoảng 136,8 triệu tấn), tức giảm khoảng 312 triệu giạ, tương đương 8,5 triệu tấn.
www.qdfeed.com
