Giá đậu nành kỳ hạn tháng 11 chốt phiên giao dịch ngày 26/10 giảm 8,75 cent, ở mức 1.279,50 cent/bushel, giảm 18,25 cent so với mức cao nhất và tăng 2,0 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 01/2024 chốt phiên giảm 8,25 cent, ở mức 1.300,25 cent/bushel, tăng 2,25 cent so với mức thấp nhất và giảm 18,25 cent so với mức cao nhất.

Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên tăng 0,30 usd, ở mức 429,50 usd/short tấn, giảm 3,70 usd so mức cao nhất và tăng 7,40 usd so với mức thấp nhất.

Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên giảm 0,86 cent, ở mức 51,74 cent/pound, giảm 1,75 cent so với mức cao nhất và tăng 0,18 cent so với mức thấp nhất.

Giá đậu nành trải qua một phiên giao dịch biến động nhưng chốt phiên chỉ giảm nhẹ sau đợt bán kỹ thuật. Thời tiết có mưa thuận lợi ở Nam Mỹ và tiến độ thu hoạch nhanh chóng ở Mỹ là nguyên nhân chính khiến giá giảm.

Bộ NN Mỹ cho biết các nhà xuất khẩu tư nhân đã xuất bán 110.000 tấn đậu nành cho Trung Quốc, giao hàng trong năm tiếp thị 2023/2024.

Trong tuần kết thúc vào ngày 19/10, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 50,6 triệu giạ (1.378.200 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 87,6 triệu giạ, cao hơn nhiều so với mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,755 tỷ giạ (47,76 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 818 triệu giạ (22,26 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 29% so với một năm trước.

Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 507.500 tấn cho năm 2023-2024 và 100 tấn cho năm 2024-2025, trong khi dầu đậu nành giảm 100 tấn trong giai đoạn 2023-2024.

Thời tiết ở Mỹ có mưa và tuyết liên tục có khả năng làm trì hoãn 20% vụ thu hoạch còn lại, nhưng ở Brazil, miền Bắc quá khô hạn và miền Nam phải đối mặt với mưa lớn và lũ lụt trên vùng đất vốn đã sũng nước.

Bắp

Giá bắp giảm nhẹ sau một số đợt bán kỹ thuật.

Trong tuần kết thúc vào ngày 19/10, lượng xuất khẩu bắp tăng 53,2 triệu giạ (1.351.100 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 0,6 triệu giạ (16.000 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 19 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 2,025 tỷ giạ (51,44 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 690 triệu giạ (17,53 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 24% so với một năm trước.

Bộ NN Ukraine cho biết nước này hy vọng sẽ xuất khẩu tới 1 triệu tấn ngũ cốc dọc theo hành lang Biển Đen mà nước này đã mở vào cuối tháng 8. Hơn 40 tàu chở hàng đã ra khơi kể từ thời điểm đó, đến các thị trường châu Phi và châu Á.

Nam Phi không đưa ra thay đổi nào đối với ước tính sản lượng bắp năm 2023, giữ ổn định ở mức 645,6 triệu giạ (16,40 triệu tấn), tăng khoảng 6% so với năm trước. Hơn một nửa (52%) trong tổng số đó là bắp trắng (dùng làm thực phẩm), phần còn lại là bắp vàng.

Lúa mì

Giá lúa mì phục hồi trở lại từ mức thấp trong nhiều tuần qua do một số hoạt động mua vào và những lo ngại kéo dài về tình trạng hậu cần xuất khẩu khu vực Biển Đen.

Trong tuần kết thúc vào ngày 19/10, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 13,4 triệu giạ (363.700 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 0,6 triệu giạ (17.200 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 4,8 triệu giạ, thấp hơn nhiều so với mức cần thiết hàng tuần để đạt được ước tính xuất khẩu 700 triệu giạ (19,05 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 407 triệu giạ (11,08 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 6% so với một năm trước.

Lượng xuất khẩu lúa mì của Mỹ đang thấp hơn so với một năm trước. Trong khi thời tiết có mưa gần đây đã cải thiện điều kiện mùa vụ ở cả Argentina và Australia, mặc dù cả hai vụ lúa mì này vẫn được dự đoán sẽ có sản lượng giảm mạnh so với năm trước.

Đài Loan thầu mua 1,9 triệu giạ (51.700 tấn) lúa mì có chất lượng thực phẩm từ Hoa Kỳ, giao hàng từ giữa tháng 12 đến đầu tháng 1.

www.qdfeed.com