Giá đậu nành kỳ hạn tháng 08 chốt phiên giao dịch ngày 13/7 tăng 40,50 cent, ở mức 1.484,75 cent/bushel, giảm 0,75 cent so với mức cao nhất và tăng 43,75 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên tăng 43,25 cent, ở mức 1.399 cent/bushel, tăng 45,50 cent so với mức thấp nhất và giảm 0,50 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 08 chốt phiên tăng 11,40 usd, ở mức 422,30 usd/short tấn, giảm 1,50 usd so mức cao nhất và tăng 12,50 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 08 chốt phiên tăng 1,35 cent, ở mức 65,69 cent/pound, giảm 0,34 cent so với mức cao nhất và tăng 1,64 cent so với mức thấp nhất.
Giá đậu nành tăng mạnh trở lại trong một đợt mua kỹ thuật vào thứ Năm khi thị trường nghi ngờ về tiềm năng sản lượng thực sự của mùa vụ, sau báo cáo đầy bất ngờ của Bộ NN Mỹ vào hôm trước. Thời tiết, chiến tranh ở Ukraine và đồng đô-la Mỹ suy yếu đều là những yếu tố góp phần vào xu hướng tăng giá.
Bộ NN Mỹ cho biết các nhà xuất khẩu tư nhân đã xuất bán 315.000 tấn đậu nành cho Mexico, giao hàng trong năm tiếp thị 2023-2024.
Trong tuần kết thúc vào ngày 06/7, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 3 triệu giạ (80.600 tấn) cho năm 2022-2023 và tăng 7,7 triệu giạ (209.200 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 12,4 triệu giạ, cao hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt được ước tính xuất khẩu của Bộ NN Mỹ là 1,980 tỷ giạ (53,89 triệu tấn) cho năm 2022-2023. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 1,826 tỷ giạ (49,70 triệu tấn) cho năm 2022-2023 và giảm 5% so với một năm trước.
Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 54.500 tấn cho năm 2022-2023 và 118.100 tấn cho năm 2023-2024.
Lượng xuất khẩu dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 1.200 tấn và tất cả đều cho năm tiếp thị 2022-2023.
Lượng mua đậu nành của Trung Quốc trong tháng 6 tăng gần 25% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 404,3 triệu giạ (11 triệu tấn), chủ yếu nhập từ Brazil. Tổng lượng nhập khẩu đậu nành trong nửa đầu năm 2023 đang cao hơn 13,6% so với cùng kỳ năm ngoái, với 1,932 tỷ giạ (52,58 triệu tấn).
CONAB kỳ vọng sản lượng đậu nành của Brazil sẽ đạt mức kỷ lục mới là 5,677 tỷ giạ (154,50 triệu tấn), khi năng suất cải thiện 16% và diện tích gieo trồng tăng 6% trong mùa vụ này.
Bắp
Giá bắp tăng đáng kể nhờ lực mua tốt sau khi giá đã giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm vào hôm trước. Số liệu xuất khẩu hàng tuần tốt hơn mong đợi cũng góp phần hỗ trợ giá tăng.
Trong tuần kết thúc vào ngày 06/7, lượng xuất khẩu bắp tăng 18,4 triệu giạ (468.400 tấn) cho năm 2022-2023 và tăng 18,5 triệu giạ (470.800 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 19,4 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt được ước tính xuất khẩu của Bộ NN Mỹ là 1,650 tỷ giạ (41,91 triệu tấn) cho năm 2022-2023. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 1,396 tỷ giạ (35,46 triệu tấn) cho năm 2022-2023 và giảm 34% so với một năm trước.
Sản lượng ethanol trong tuần kết thúc vào ngày 07/7 giảm 28.000 thùng/ngày so với tuần trước khi chỉ đạt trung bình 1,032 triệu thùng/ngày. Tồn trữ ethanol giảm 398.000 thùng, ở mức 22,658 triệu thùng.
CONAB kỳ vọng sản lượng bắp của Brazil đạt 127,8 triệu tấn, tăng cao hơn so với dự báo trong tháng trước là 125,7 triệu tấn. (Sản lượng bắp của Brazil niên vụ 2021-2022 đạt 113,1 triệu tấn).
Hàn Quốc đã mua 2,7 triệu giạ (68.580 tấn) bắp làm thức ăn chăn nuôi, có khả năng xuất xứ từ Nam Mỹ, trong một cuộc đấu thầu quốc tế, giao hàng vào cuối tháng 11.
Lúa mì
Giá lúa mì tăng nhẹ theo các loại ngũ côc khác sau khi trải qua một phiên giao dịch biến động.
Trong tuần kết thúc vào ngày 06/7, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 14,5 triệu giạ (395.700 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 14,1 triệu giạ, thấp hơn một chút so với mức cần thiết hàng tuần để đạt được ước tính xuất khẩu của Bộ NN Mỹ là 725 triệu giạ (19,73 triệu tấn) cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt 184 triệu giạ (5 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 29% so với một năm trước.
Nga tiếp tục đe dọa không gia hạn Sáng kiến Ngũ cốc Biển Đen nếu nhu cầu xuất khẩu phân bón và thức ăn chăn nuôi của nước này không được giải quyết triệt để hơn. Trong khi đó, giá lúa mì của Nga vẫn tiếp tục rất cạnh tranh so với giá lúa mì thế giới (thấp hơn khoảng 20 usd/tấn so với giá lúa mì của EU), và xuất khẩu của Nga trong tháng 6 được dự báo cao kỷ lục.
Strategie Grains đã hạ ước tính sản lượng lúa mì mềm của EU từ 128,7 triệu tấn, xuống còn 126,2 triệu tấn do hạn hán.
www.qdfeed.com