Giá đậu nành kỳ hạn tháng 07 chốt phiên giao dịch ngày 08/6 tăng 11,75 cent, ở mức 1.740 cent/bushel, giảm 18,0 cent so với mức cao nhất và tăng 13,50 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 08 chốt phiên tăng 9,0 cent, ở mức 1.662,75 cent/bushel, tăng 12,50 cent so với mức thấp nhất và giảm 15,50 cent so với mức cao nhất.

Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 07 chốt phiên giảm 1,80 usd, ở mức 415,60 usd/short tấn, giảm 8,60 usd so mức cao nhất và tăng 2,30 usd so với mức thấp nhất.

Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 07 chốt phiên tăng 1,50 cent, ở mức 82,94 cent/pound, giảm 0,50 cent so với mức cao nhất và tăng 1,49 cent so với mức thấp nhất.

Giá đậu nành tăng nhẹ khi nguồn tồn trữ trong nước eo hẹp và kỳ vọng nhu cầu xuất khẩu sẽ tăng mạnh trong những tháng Hè.

Trước báo cáo Cung cầu tháng 6, các nhà phân tích dự báo lượng tồn trữ vụ cũ ở mức 5,97 triệu tấn, giảm 0,43 triệu tấn so với tháng 5. Đối với vụ mới, lượng tồn trữ được dự báo bị cắt giảm 0,43 triệu tấn, xuống còn 8 triệu tấn. Trên phạm vi toàn cầu, ước tính lượng tồn trữ được kết chuyển qua năm 2022-2023 là có 84,9 triệu tấn và qua năm 2023-2024 là 99,5 triệu tấn.

Census cho biết có 3,66 triệu tấn đậu nành Mỹ đã được xếp hàng xuất khẩu trong tháng 4, là mức cao nhất của một tháng và tăng 14% so với tháng Ba. Tổng lũy kế cho năm kinh doanh hiện tại là 48,4 triệu tấn tính đến tháng 4. Trong khi lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành là 1,07 triệu tấn và 76,241 tấn dầu đậu nành.

Barchart đưa ra dự báo đầu tiên cho sản lượng đậu nành niên vụ 2022-2023 ở mức 120,9 triệu tấn trên cơ sở 36,3 triệu héc-ta đã thu hoạch; với ước tính năng suất là 3,33 tấn/ha (so với 3,46 tấn/ha của Bộ NN Mỹ). Năm ngoái, ước tính năng suất đậu nành đầu tiên ở mức 3,31 tấn/ha, trước khi kết thúc ở mức 3,45 tấn/ha.

Abiove ước tính sản lượng đậu nành năm 2022 của Brazil đạt 125,50 triệu tấn, cao hơn một chút so với ước tính trước đó. Trong khi đó, Conab dự báo thấp hơn một chút, ở mức 124,27 triệu tấn. Abiove cũng dự báo xuất khẩu đậu nành của nước này sẽ đạt khoảng 80 triệu tấn, khô dầu đậu nành ở mức 18,3 triệu tấn và dầu đậu nành ở mức 2,0 triệu tấn.

Bắp

Giá bắp tăng phiên thứ ba liên tiếp sau một đợt mua kỹ thuật khác. Lo ngại về nguồn cung thắt chặt ở Hoa Kỳ và thách thức xuất khẩu ở Ukraine vẫn là những tác nhân hỗ trợ giá tăng.

Ước tính của thị trường cho mức tồn trữ vụ cũ trong báo cáo sắp tới ở mức 36,5 triệu tấn và tồn trữ vụ mới dao động từ 38,2 đến 30,4 triệu tấn, so với con số của tháng 5 là 34,5 triệu tấn. Tồn trữ vụ cũ toàn cầu dự kiến ​​sẽ bị thắt chặt thêm 600.000 tấn, xuống còn 308,8 triệu tấn. Tồn trữ vụ mới toàn cầu ước tính cũng thấp hơn 600.000 tấn, xuống còn 304,5 triệu tấn.

Census cho biết lượng bắp xuất khẩu trong tháng Tư ở mức 6,97 triệu tấn, giảm 6% so với tháng 3 và thấp hơn 18% so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng lũy kế xuất khẩu cho đến tháng 4 là 42,4 triệu tấn. Trong khí đó, xuất khẩu DDGS là 813.749 tấn và xuất khẩu ethanol đạt mức kỷ lục 185,19 triệu thùng trong tháng Tư.

Ước tính sản lượng bắp đầu tiên của Barchart ở mức 360,8 triệu tấn, trên diện tích 33 triệu héc-ta, với năng suất ở mức 10,92 tấn/ha. Vào tháng 12, năng suất vụ bắp 2021-2022 được Barchart dự báo ở mức 11,4 tấn/ha, tăng từ mức 10,9 tấn/ha ban đầu và cao hơn mức 11,1 tấn/ha của Bộ NN Mỹ.

Lúa mì

Giá lúa mì không thể giữ mức tăng hai con số vào phiên đêm nhưng vẫn chốt phiên giao dịch ngày thứ Tư trong sắc xanh sau một số động thái mua ròng kỹ thuật.

Dự đoán trung bình thương mại cho tồn trữ lúa mì vụ cũ là 18,1 triệu tấn, so với con số 17,8 triệu tấn trong tháng 5 của Bộ NN Mỹ. Tồn trữ lúa mì vụ mới được ước tính từ 15 đến 18,5 triệu tấn, với dự đoán thương mại trung bình giảm 0,1 triệu tấn so với báo cáo tháng Năm. Tồn trữ lúa mì vụ cũ toàn cầu được ước tính từ 275 triệu tấn đến 281,3 triệu tấn; và vụ mới dự kiến trong khoảng từ 260 triệu tấn đến 272 triệu tấn.

Xuất khẩu lúa mì trong tháng 4 là 1,75 triệu tấn, nâng tổng lũy kế cho năm hiện tại lên 20 triệu tấn.

Ukraine cáo buộc Nga đánh cắp khoảng 600.000 tấn ngũ cốc từ các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng, trong đó có một phần đã được chuyển đến Syria và phần còn lại được vận chuyển đến Crimea.

Một số nguồn tin cho rằng khả năng Ấn Độ có thể cho phép xuất khẩu thêm 1,20 triệu tấn lúa mì đang bị kẹt tại cảng, phần lớn số lượng này sẽ được xuất đến Bangladesh và một số quốc gia Đông Nam Á khác.

www.qdfeed.com