Giá đậu nành kỳ hạn tháng 01 chốt phiên giao dịch ngày 21/12 giảm 11,0 cent, ở mức 1.297,25 cent/bushel, giảm 12,75 cent so với mức cao nhất và tăng 2,25 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 03 chốt phiên giảm 14,0 cent, ở mức 1.301,75 cent/bushel, tăng 15,0 cent so với mức thấp nhất và giảm 2,50 cent so với mức cao nhất.

Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 01 chốt phiên giảm 4,50 usd, ở mức 395,40 usd/short tấn, giảm 4,60 usd so mức cao nhất và tăng 1,10 usd so với mức thấp nhất.

Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 01 chốt phiên giảm 1,52 cent, ở mức 49,04 cent/pound, giảm 1,55 cent so với mức cao nhất và tăng 0,04 cent so với mức thấp nhất.

Giá đậu nành tiếp tục giảm sau một đợt bán kỹ thuật khác phần lớn được thúc đẩy bởi dự báo mưa thuận lợi ở Nam Mỹ.

Trong tuần kết thúc vào ngày 14/12, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 73,1 triệu giạ (1.989.400 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 5,3 triệu giạ (144.000 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 48,8 triệu giạ, cao hơn nhiều so với mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,755 tỷ giạ (47,76 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 1,299 tỷ giạ (35,35 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 16% so với một năm trước.

Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 147.800 tấn, và dầu đậu nành là 3.100 tấn, giao hàng trong năm tiếp thị 2023-2024.

CELERES hạ mức ước tính về sản lượng đậu nành niên vụ 2023/24 của Brazil xuống còn 156,49 triệu tấn, sau khi chứng kiến ​​nhiều đợt hạn hán vào giai đoạn đầu mùa vụ, thấp hơn cả ước tính của AgRural (159,10 triệu tấn).

Bắp

Giá bắp tăng nhẹ trở lại nhờ một số lực mua tốt khi giá xuống thấp.

Trong tuần kết thúc vào ngày 14/12, lượng xuất khẩu bắp tăng 39,9 triệu giạ (1.013.100 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 34,3 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính 2,1 tỷ giạ (53,34 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 1,109 tỷ giạ (28,17 triệu tấn) cho năm 2023-24 và tăng 37% so với một năm trước.

Sản lượng ethanol trung bình đạt 1,071 triệu thùng/ngày trong tuần kết thúc vào ngày 15/12, giảm 3.000 thùng/ngày so với tuần trước. Tồn trữ ethanol ở mức 22,9 triệu thùng, tăng 806.000 thùng so với tuần trước. Đây là tuần thứ hai liên tiếp sản lượng giảm và tồn kho tăng.

Lúa mì

Giá lúa mì biến động nhưng chủ yếu tăng cao hơn sau một số điều chỉnh kỹ thuật không đồng đều.

Trong tuần kết thúc vào ngày 14/12, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 11,9 triệu giạ (322.700 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 0,1 triệu giạ (3.200 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 12,4 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 725 triệu giạ (19,73 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 546 triệu giạ (14,86 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 3% so với một năm trước.

Strategie Grains dự báo ​​sản lượng lúa mì thế giới sẽ tăng 3,2% trong niên vụ 2024/25, với ước tính mới là 768,81 triệu tấn. Sản lượng lúa mì của EU sẽ giảm nhưng sản lượng ở Bắc Mỹ, Nam Mỹ và Australia sẽ tăng nhiều hơn để bù đắp cho sự sụt giảm này.

www.qdfeed.com