Giá đậu nành kỳ hạn tháng 11 chốt phiên giao dịch ngày 28/9 giảm 2,75 cent, ở mức 1.300,50 cent/bushel, giảm 6,50 cent so với mức cao nhất và tăng 13,50 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 01/2024 chốt phiên giảm 3,75 cent, ở mức 1.319,25 cent/bushel, tăng 12,0 cent so với mức thấp nhất và giảm 7,25 cent so với mức cao nhất.

Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 10 chốt phiên tăng 2,30 usd, ở mức 392,40 usd/short tấn, giảm 2,10 usd so mức cao nhất và tăng 3,70 usd so với mức thấp nhất.

Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 10 chốt phiên giảm 1,08 cent, ở mức 58,53 cent/pound, giảm 1,22 cent so với mức cao nhất và tăng 0,46 cent so với mức thấp nhất.

Giá đậu nành giảm nhẹ trở lại do bán kỹ thuật sau một phiên giao dịch biến động.

Thu hoạch đậu nành của Hoa Kỳ khả năng tăng tốc trong tuần tới, với thời tiết khô ráo ở vành đai miền Trung, nhưng dự kiến ​​sẽ có mưa rào ở Đồng bằng phía Bắc. Tình trạng hạn hán vẫn diễn ra ở nhiều khu vực, và các bang lớn như Nebraska, Iowa, Minnesota, Illinois và Wisconsin đang rất cần một số trận mưa lớn để giảm bớt hạn hán.

Trong tuần kết thúc vào ngày 21/9, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 24,7 triệu giạ (672.200 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu của tuần trước đạt 20 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,790 tỷ giạ (48,72 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 652 triệu giạ (17,74 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 34% so với một năm trước.

Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần cho thấy có một lượng 16.900 tấn bị hủy cho năm 2022-2023 và xuất bán 375.700 tấn cho năm 2023-2024.

Lượng xuất khẩu dầu đậu nành hàng tuần đạt 4.700 tấn cho năm 2022-2023 và 100 tấn cho năm 2023-2024.

Safras & Mercado ước tính xuất khẩu đậu nành của Brazil sẽ đạt 3,638 tỷ giạ (99 triệu tấn) vào năm 2024, cao hơn một chút so với mức 3,601 tỷ giạ (98 triệu tấn) vào năm 2023. Sản lượng khô dầu đậu nành của Brazil dự kiến ​​sẽ tăng 4%, đạt 42,3 triệu tấn vào năm tới.

Bắp

Giá bắp tiếp tục tăng thêm 1% khi các nhà giao dịch cân đối lại các vị thế đầu tư trước báo cáo tồn kho hàng quý của Bộ NN Mỹ, sẽ được công bố vào thứ Sáu.

Trong tuần kết thúc vào ngày 21/9, lượng xuất khẩu bắp tăng 33,1 triệu giạ (841.800 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 0,6 triệu giạ (15.200 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 28,7 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 2,050 tỷ giạ (52,07 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 495 triệu giạ (12,57 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 3% so với một năm trước.

Sản lượng ethanol trung bình đạt 1,009 triệu thùng/ngày trong tuần kết thúc vào ngày 22/9, tăng 29.000 thùng/ngày so với tuần trước. Tồn trữ ethanol giảm 367.000 thùng, xuống mức 22,048 triệu thùng.

Brazil tiếp tục xuất khẩu số lượng lớn bắp sang Trung Quốc, nhưng cũng có thông tin cho Trung Quốc đã mua từ 19,7 triệu đến 39,4 triệu giạ bắp từ Ukraine trong hai tuần qua. Trung Quốc cũng bắt đầu thu hoạch vụ bắp trong nước, với sản lượng dự kiến ​​đạt 285 triệu tấn, tăng gần 3% so với cùng kỳ năm trước.

Lúa mì

Giá lúa mì giảm lại do bán kỹ thuật, với một số kỳ hạn chốt phiên giảm hơn 1,25%.

Trong tuần kết thúc vào ngày 21/9, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 20 triệu giạ (544.500 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 21,5 triệu giạ, cao hơn mức cần thiết để đạt ước tính xuất khẩu 700 triệu giạ (19,05 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 337 triệu giạ (9,17 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 14% so với một năm trước.

Drought could cut NSW winter crop production by almost 50%, report warns |  Drought | The Guardian

Ai Cập đã thầu mua tổng cộng 180.000 tấn lúa mì, trong đó 120.000 tấn từ Romania và 60.000 tấn từ Bulgaria.

Tình trạng hạn hán tiếp tục diễn ra ở Úc khiến một số nhà phân tích dự kiến sản lượng lúa mì của Úc có thể phải giảm thêm 2 – 3 triệu tấn nếu thời tiết khô nóng kéo dài.

www.qdfeed.com