Giá đậu nành kỳ hạn tháng 01/2024 chốt phiên giao dịch ngày 02/11 tăng 13,25 cent, ở mức 1.328,25 cent/bushel, giảm 1,75 cent so với mức cao nhất và tăng 13,25 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 03/2024 chốt phiên tăng 13,25 cent, ở mức 1.342 cent/bushel, tăng 13,25 cent so với mức thấp nhất và giảm 1,75 cent so với mức cao nhất.
Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên giảm 4,10 usd, ở mức 426,30 usd/short tấn, giảm 8,20 usd so mức cao nhất và tăng 3,80 usd so với mức thấp nhất.
Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên tăng 0,42 cent, ở mức 50,32 cent/pound, giảm 0,26 cent so với mức cao nhất và tăng 1,0 cent so với mức thấp nhất.
Giá đậu nành đạt mức tăng hai con số sau khi trải qua phiên giao dịch biến động. Thời tiết khô hạn ở Nam Mỹ là nguyên nhân chính dẫn đến các biến động giá trong phiên, mặc dù lạc quan về nhu cầu hiện tại cũng rất tốt.
Trong tuần kết thúc vào ngày 26/10, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 37,1 triệu giạ (1.010.000 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 73,2 triệu giạ, cao hơn nhiều so với mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,755 tỷ giạ (47,76 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 855 triệu giạ (23,27 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 28% so với một năm trước.
Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 86.400 tấn cho năm 2023-2024 và 200 tấn cho năm 2024-2025.
Lượng xuất khẩu dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 1.900 tấn cho năm tiếp thị 2023-2024.
Các nhà phân tích dự đoán nhập khẩu đậu nành Quý 4 của Trung Quốc sẽ tăng mạnh, lên mức 105 triệu tấn cho cả năm 2023, tăng 15% so với cùng kỳ năm ngoái. Khoảng 45% lượng nhập khẩu trong Quý 4 dự kiến sẽ có nguồn gốc từ Brazil, sau đó là Mỹ. Các nhà máy ép dầu tại đây thường ưa chuộng đậu nành của Brazil do chất lượng dầu đậu nành và khô dầu đậu nành tốt hơn.
Bắp
Giá bắp không tìm thấy bất kỳ động lực tăng giá nào khi số liệu xuất khẩu hàng tuần gây thất vọng, thúc đẩy một đợt bán kỹ thuật khiến giá giảm nhẹ.
Trong tuần kết thúc vào ngày 26/10, lượng xuất khẩu bắp tăng 29,5 triệu giạ (748.100 tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 0,5 triệu giạ (12.700 tấn) cho năm 2024-2025. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 19,9 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 2,025 tỷ giạ (51,44 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 719 triệu giạ (18,26 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 26% so với một năm trước.
Sản lượng ethanol trong tuần kết thúc vào ngày 27/10 đạt 1,052 triệu thùng/ngày, tăng 12.000 thùng/ngày so với tuần trước và là mức sản lượng cao nhất kể từ tuần 11/8. Tồn trữ ethanol giảm 386.000 thùng, ở mức 21,012 triệu thùng.
Lúa mì
Giá lúa mì tăng nhẹ sau một đợt mua kỹ thuật.
Trong tuần kết thúc vào ngày 26/10, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 10,1 triệu giạ (275.600 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 3,7 triệu giạ, thấp hơn nhiều so với mức cần thiết hàng tuần để đạt được ước tính xuất khẩu 700 triệu giạ (19,05 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 417 triệu giạ (11,35 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 7% so với một năm trước.
Sàn giao dịch ngũ cốc Buenos Aires đã hạ ước tính sản lượng lúa mì niên vụ 2023/24 của Argentina xuống 5%, còn 565,9 triệu giạ (15,40 triệu tấn) do thời tiết bất lợi. Argentina là một trong những nước xuất khẩu lúa mì hàng đầu ở Nam bán cầu, nhưng sản lượng có thể bị giảm hơn nữa do hiện tượng El Niño.
Bộ NN Nga sẽ giảm thuế xuất khẩu lúa mì xuống 4.923 Rúp/tấn, so với mức 5.298 Rúp/tấn trước đó.
Các nguồn tin cho thấy Bangladesh đang thầu mua 50.000 tấn lúa mì chất lượng thực phẩm. Jordan thầu mua 120.000 tấn, và Nhật Bản thầu mua 113.506 tấn lúa mì từ Mỹ, Canada và Australia.
www.qdfeed.com