Báo cáo Cung cầu Nông nghiệp Thế giới Tháng 1 của Bộ NN Mỹ khiến giá ngũ cốc giảm, khi sản lượng bắp và đậu nành năm 2023 cao hơn nhiều so với dự đoán của các nhà phân tích trước báo cáo sau ba năm liên tiếp nguồn cung thắt chặt. Cung lúa mì toàn cầu cũng lớn hơn đã hạn chế việc gieo trồng lúa mì vụ Đông năm 2024 của Mỹ. Trong khi đó, sản lượng bắp và đậu nành của Brazil giảm nhưng không nhiều như kỳ vọng. Sản lượng đậu nành của Argentina tăng nhẹ và dự báo sản lượng bắp của nước này không thay đổi, mang đến kỳ vọng Nam Mỹ sẽ có một mùa xuất khẩu cao kỷ lục khác trong năm dương lịch hiện tại.

Giá đậu nành kỳ hạn tháng 03 chốt phiên giao dịch ngày 12/1 giảm 12,25 cent, ở mức 1.224,25 cent/bushel, giảm 22,50 cent so với mức cao nhất và tăng 21,25 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 05 chốt phiên giảm 12,25 cent, ở mức 1.235,75 cent/bushel, tăng 20,25 cent so với mức thấp nhất và giảm 22,50 cent so với mức cao nhất.

Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 03 chốt phiên giảm 0,10 usd, ở mức 362,10 usd/short tấn, giảm 2,70 usd so mức cao nhất và tăng 8,70 usd so với mức thấp nhất.

Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 03 chốt phiên giảm 0,47 cent, ở mức 48,25 cent/pound, giảm 1,40 cent so với mức cao nhất và tăng 0,55 cent so với mức thấp nhất.

Bộ NN Mỹ nâng dự báo sản lượng đậu nành năm 2023 lên 4,16 tỷ giạ (113,22 triệu tấn). Mặc dù dự báo này cao hơn các dự báo trước đây nhưng đây là vụ mùa có sản lượng thấp nhất trong 4 năm. Diện tích thu hoạch cũng bị cắt giảm xuống còn 82,4 triệu mẫu Anh.

Trong báo cáo Tồn trữ hàng Quý, Bộ NN Mỹ đưa dự báo nguồn cung sẵn có ở mức 3 tỷ giạ (81,65 triệu tấn), giảm 1% so với năm 2022. Tồn trữ tại các trang trại đạt tổng cộng 1,45 tỷ giạ, trong khi tồn trữ ngoài trang trại ở mức 1,55 tỷ giạ. Tổng mức sử dụng trong giai đoạn từ tháng 9 đến tháng 11 đạt 1,43 tỷ giạ, thấp hơn 6% so với cùng kỳ năm 2022.

Do những thay đổi về phía nguồn cung, dự báo của USDA về tồn trữ cuối kỳ niên vụ 2023-2024 là 280 triệu giạ (7,62 triệu tấn), cao hơn mức kỳ vọng trước báo cáo.

Trên toàn cầu, ước tính tồn trữ niên vụ 2023-2024 tăng ít hơn 0,5 triệu tấn, lên 114,60 triệu tấn. Bộ NN Mỹ dự báo tăng sản lượng của Argentina thêm 2 triệu tấn, lên 50 triệu tấn, đồng thời cắt giảm sản lượng dự kiến ​​của Brazil thêm 4 triệu tấn, xuống còn 157 triệu tấn.

Bắp

Giá bắp giảm đáng kể sau một đợt bán kỹ thuật mạnh khi báo cáo cho thấy dự báo sản lượng tốt từ Bộ NN Mỹ.

Sản lượng bắp của Mỹ niên vụ 2023-2024 được dự báo ở mức 15,342 tỷ giạ (389,69 triệu tấn), tăng 108 triệu giạ so với dự báo trong tháng 12. Sản lượng cao hơn khiến lượng tồn trữ cuối kỳ cao hơn cho niên vụ 2023-2024, ở mức 2,162 tỷ giạ (54,91 triệu tấn), tăng 31 triệu giạ so với dự báo tháng 12.

Tồn trữ bắp hàng Quý vào ngày 01/12/2023 đạt tổng cộng 12,2 tỷ giạ (309,88 triệu tấn), tăng 13% so với một năm trước và là mức cao nhất trong 5 năm. Trong đó, 7,83 tỷ giạ được dự trữ tại các trang trại, tăng 16% so với một năm trước. Tồn trữ ngoài trang trại ở mức 4,34 tỷ giạ, tăng 7% so với một năm trước. Tổng mức sử dụng trong quý từ tháng 9 đến tháng 12 năm 2023 đạt 4,53 tỷ giạ, so với 4,21 tỷ giạ cùng kỳ năm ngoái.

Trên toàn cầu, tồn trữ đầu kỳ cho vụ mới 2023-2024 tăng 0,46 triệu tấn, lên 300,56 triệu tấn. Sản lượng trên toàn cầu tăng 13,66 triệu tấn, lên 1.235,73 triệu tấn. Xuất khẩu toàn cầu giảm 0,6 triệu tấn xuống 200,89 triệu tấn. Tồn kho cuối kỳ toàn cầu cho vụ mới được dự báo ở mức 325,22 triệu tấn, tăng 10 triệu tấn.

Bất chấp sự gia tăng sản lượng toàn cầu, Bộ NN Mỹ hạ sản lượng bắp của Brazil xuống 2 triệu tấn, còn 127 triệu tấn. Sản lượng của Argentina được giữ ở mức 55 triệu tấn. Sản lượng của Ukraine giữ ở mức 30,5 triệu tấn và xuất khẩu của Ukraine cũng được giữ ở mức 21 triệu tấn.

Lúa mì

Giá lúa mì dao động nhẹ nhưng hầu hết đều giảm do một số động thái điều chỉnh kỹ thuật không đồng đều, với tác động từ sự giảm giá từ bắp và đậu nành.

Bộ NN Mỹ ước tính tồn trữ cuối kỳ ở mức 648 triệu giạ (17,64 triệu tấn), giảm so với mức 659 triệu giạ trong báo cáo tháng 12. Tồn trữ các loại lúa mì vào ngày 01/12/2023 đạt tổng cộng 1,41 tỷ giạ (38,37 triệu tấn), tăng 8% so với một năm trước. Tồn trữ tại trang trại ước tính đạt 395 triệu giạ, tăng 9% so với tháng 12 năm ngoái. Tồn trữ ngoài trang trại ở mức 1,02 tỷ giạ, tăng 7% so với một năm trước. Từ tháng 9 đến tháng 11/2023, tổng mức sử dụng là 357 triệu giạ, thấp hơn 23% so với cùng kỳ năm trước.

Trên toàn cầu, tồn trữ cuối kỳ tăng lên 260 triệu tấn, từ mức 258,2 triệu tấn trong tháng 12. Xuất khẩu ước tính đạt 51 triệu tấn đối với Nga và 14 triệu tấn đối với Ukraine. Cả hai đều tăng nhẹ so với tháng 12.

Sản lượng lúa mì của Australia ước tính đạt 25,5 triệu tấn, không thay đổi so với tháng trước. Sản lượng của Argentina ước tính đạt 15 triệu tấn, không thay đổi so với tháng 12.

Chi tiết báo cáo tại đây: WASDE-0124

www.qdfeed.com