Các số liệu mới nhất về xếp hạng chất lượng mùa vụ đối với bắp, đậu nành và lúa mì vụ Xuân đều giảm xuống thấp hơn đáng kể so với dự đoán của các nhà phân tích, cùng với dự báo thời tiết khô hạn trong những ngày tới đã đẩy giá hầu hết các loại ngũ cốc tăng cao hơn đáng kể.

Giá đậu nành kỳ hạn tháng 07 chốt phiên giao dịch ngày 21/6 tăng 37,50 cent, ở mức 1.514,75 cent/bushel, giảm 6,50 cent so với mức cao nhất và tăng 35,75 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 08 chốt phiên tăng 36,75 cent, ở mức 1.445 cent/bushel, tăng 33,75 cent so với mức thấp nhất và giảm 2,0 cent so với mức cao nhất.

Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 07 chốt phiên tăng 26,40 usd, ở mức 439,20 usd/short tấn, giảm 2,0 usd so mức cao nhất và tăng 21,80 usd so với mức thấp nhất.

Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 07 chốt phiên giảm 4,0 cent, ở mức 55,63 cent/pound, giảm 3,67 cent so với mức cao nhất và bằng với mức thấp nhất.

Giá đậu nành tăng mạnh sau khi thời tiết khô nóng ở phần lớn vùng Trung Tây, gây áp lực cho mùa vụ. Giá khô dầu đậu nành tăng gần 7% dưới áp lực của giá đậu nành và việc giá dầu đậu nành giảm sàn.

Xếp hạng chất lượng mùa vụ đậu nành giảm mạnh trong tuần này sau khi giảm từ 59% ở tình trạng tốt đến xuất sắc, xuống còn 54% tính đến Chủ nhật (trong khi các nhà phân tích chỉ dự đoán giảm hai điểm phần trăm), 34% khác được đánh giá khá (tăng hai điểm so với tuần trước), 12% còn lại được đánh giá kém hoặc rất kém (tăng ba điểm so với tuần trước).

Về mặt sinh lý, 92% vụ mùa hiện đã nảy mầm, tăng từ mức 86% một tuần trước. Con số này cao hơn đáng kể so với cùng kỳ năm 2022 và mức trung bình 5 năm trước đó, cả hai đều là 81%.

Số liệu kiểm tra xuất khẩu đậu nành hàng tuần đạt 6,8 triệu giạ (185.000 tấn). Tổng lượng xuất bán cho năm 2022-2023 hiện ở mức 1,802 tỷ giạ (49,04 triệu tấn), giảm 4% so với năm trước. Ước tính xuất khẩu đậu nành đạt 2 tỷ giạ (54,43 triệu tấn) cho năm 2022-2023, giảm 7% so với năm trước.

ANEC ước tính rằng xuất khẩu đậu nành của Brazil đạt 525,4 triệu giạ (14,30 triệu tấn) trong tháng 6, thấp hơn một chút so với dự báo trước đó. Xuất khẩu khô dầu đậu nành của Brazil dự kiến đạt 2,37 triệu tấn.

Bắp

Giá bắp tăng mạnh sau một đợt mua kỹ thuật khi xếp hạng chất lượng mùa vụ giảm xuống sáu điểm trong báo cáo tiến độ vụ mùa mới nhất.

Xếp hạng chất lượng mùa vụ giảm từ mức 61% được đánh giá từ tốt đến xuất sắc một tuần trước xuống còn 55% vào ngày 18/6, thấp hơn nhiều so với các dự đoán thương mại. 33% khác được đánh giá khá (tăng 2 điểm so với tuần trước), 12% còn lại được đánh giá kém hoặc rất kém (tăng 4 điểm so với tuần trước). Về mặt sinh lý, 96% vụ mùa hiện đã nảy mầm, tăng từ 93% một tuần trước và cao hơn hai điểm so với cùng kỳ năm 2022 và mức trung bình của 5 năm trước đó. Đây là các mức xếp hạng thấp nhất cho vụ mùa kể từ năm 1988.

Số liệu kiểm tra xuất khẩu bắp hàng tuần đạt 34,5 triệu giạ (876.300 tấn). Tổng lượng xuất bán cho năm 2022-2023 hiện ở mức 1,259 tỷ giạ (31,98 triệu tấn), giảm 31% so với năm trước. Bộ NN Mỹ ước tính xuất khẩu bắp đạt 1,725 ​​tỷ giạ (43,82 triệu tấn) cho năm 2022-2023, giảm 30% so với năm trước.

Lúa mì

Giá lúa mì cũng tăng mạnh sau một đợt mua kỹ thuật, với giá một số kỳ hạn tăng cao hơn 5,5%.

Xếp hạng chất lượng lúa mì vụ Đông được giữ ổn định ở mức 38% trong tình trạng tốt đến xuất sắc, 33% khác được đánh giá khá (tăng hai điểm so với tuần trước), 29% còn lại được đánh giá kém hoặc rất kém (giảm hai điểm so với tuần trước). Tiến độ mùa vụ đạt gần 94%, tăng từ 89% một tuần trước và nhanh hơn một chút so với mức trung bình 5 năm trước đó là 93%. Thu hoạch đã tăng từ 8% một tuần trước lên 15% hoàn thành trong tuần này.

Xếp hạng chất lượng lúa mì vụ Xuân giảm mạnh vào tuần trước. Trong khi các nhà phân tích dự đoán mức giảm hai điểm, thì Bộ NN Mỹ đã hạ mức xếp hạng từ 60% ở điều kiện tốt đến xuất sắc một tuần trước xuống còn 51% tính đến ngày 18/6. 37% khác được xếp hạng khá (tăng bốn điểm so với tuần trước), với 12% còn lại được đánh giá kém hoặc rất kém (tăng 5 điểm so với tuần trước).

Về mặt sinh lý, 98% của vụ mùa đã nảy mầm, tăng từ 90% một tuần trước và nhanh hơn một chút so với mức trung bình 5 năm trước là 95%. Tiến độ mùa vụ đạt 10%, bằng với mức trung bình 05 năm trước đó.

Số liệu kiểm tra xuất khẩu lúa mì hàng tuần đạt 8,7 triệu giạ (236.700 tấn). Tổng lượng xuất bán lúa mì cho năm 2023-2024 hiện ở mức 20 triệu giạ (544.300 tấn), giảm 44% so với năm trước. Bộ NN Mỹ ước tính xuất khẩu lúa mì ở mức 725 triệu giạ (19,73 triệu tấn) cho năm 2023-2024, giảm 6% so với năm trước.

www.qdfeed.com