Báo cáo Ước tính Cung cầu Nông nghiệp Thế giới tháng 7 của Bộ NN Mỹ công bố vào buổi sáng đã kích hoạt một đợt bán kỹ thuật trên diện rộng và đẩy giá ngũ cốc giảm mạnh.

Giá đậu nành kỳ hạn tháng 08 chốt phiên giao dịch ngày 12/7 giảm 53,75 cent, ở mức 1.468,25 cent/bushel, giảm 65,25 cent so với mức cao nhất và tăng 9,0 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 09 chốt phiên giảm 61,0 cent, ở mức 1.362,50 cent/bushel, tăng 2,50 cent so với mức thấp nhất và giảm 73,75 cent so với mức cao nhất.

Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 08 chốt phiên giảm 8,10 usd, ở mức 424,80 usd/short tấn, giảm 11,0 usd so mức cao nhất và tăng 0,60 usd so với mức thấp nhất.

Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 08 chốt phiên giảm 3,61 cent, ở mức 60,11 cent/pound, giảm 4,03 cent so với mức cao nhất và tăng 0,21 cent so với mức thấp nhất.

Bộ NN Mỹ đã điều chỉnh diện tích gieo trồng đậu nành lên 35,73 triệu héc-ta so với ước tính trước báo cáo. Năng suất trung bình trên toàn quốc đạt mức 3,46 tấn/ha, không thay đổi so với tháng trước. Sản lượng vụ mới ước tính đạt 122,6 triệu tấn.

Đối với năm tiếp thị 2022-2023, Bộ NN Mỹ ước tính tồn kho cuối vụ ở mức 6,26 triệu tấn, giảm 1,36 triệu tấn so với tháng trước. Sự thay đổi này phản ánh nguồn cung giảm 3,4 triệu tấn, nhưng sản xuất ép dầu cũng giảm 0,27 triệu tấn và xuất khẩu giảm giảm 1,77 triệu tấn.

Tồn trữ cuối kỳ cho năm tiếp thị 2021-2022 là 5,85 triệu tấn. Ước tính tồn kho cuối vụ cao hơn do việc cắt giảm 0,27 triệu tấn trong sản xuất ép dầu.

Trên toàn cầu, Bộ NN Mỹ cắt giảm lượng tồn trữ của năm tiếp thị 2022-2023 xuống 99,61 triệu tấn, do nguồn tồn trữ cao hơn ở Argentina đã bù đắp cho lượng tồn trữ thấp hơn ở Mỹ, Brazil và Trung Quốc.

Đối với vụ cũ, Bộ NN Mỹ tăng tồn trữ cuối vụ lên 88,73 triệu tấn, cao hơn nhiều so với mức kỳ vọng trước báo cáo, do Trung Quốc giảm lượng ép dầu và nhập khẩu; đồng thời Argentina tăng sản lượng đậu nành, nhập khẩu, ép dầu và tồn trữ cuối vụ.

Bắp

Giá bắp giảm đều đặn trong suốt phiên giao dịch sau khi báo cáo mới nhất cho thấy nguồn cung lớn hơn và lượng tồn trữ cuối kỳ cao hơn. Sự giảm giá của các loại ngũ cốc khác và giá năng lượng cũng đã gây thêm áp lực giảm giá.

Diện tích trồng bắp tăng lên mức 36,38 triệu hecta và với ước tính năng suất ở mức 11,11 tấn/ha thì sản lượng ước đạt 368,43 triệu tấn, tăng 1,14 triệu tấn so với dự báo trong tháng Sáu.

Bộ NN Mỹ cũng tăng lượng tồn trữ cuối vụ cũ thêm 0,64 triệu tấn, lên mức 38,35 triệu tấn do nhu cầu cho thức ăn chăn nuôi giảm trong năm 2021-2022. Tổng nguồn cung bắp cho giai đoạn 2022-2023 được điều chỉnh tăng thêm 1,78 triệu tấn, lên mức 407,42 triệu tấn.

Về nhu cầu, Bộ NN Mỹ giữ nguyên mức độ tiêu thụ. Thức ăn chăn nuôi và mức tiêu thụ còn lại cho vụ mùa mới cũng ở mức 135,89 triệu tấn. Thức ăn chăn nuôi, hạt giống và lượng sử dụng công nghiệp là 173,23 triệu tấn. Mức tiêu thụ ethanol cho vụ mùa 2022-2023 được dự báo là 136,53 triệu tấn, giống với tháng trước.

Trên toàn cầu, Bộ NN Mỹ đã tăng lượng tồn trữ đầu kỳ năm 2022-2023 thêm 1,36 triệu tấn, lên 312,28 triệu tấn. Sản lượng cho giai đoạn 2022-2023 tăng nhẹ lên 1.185,90 triệu tấn. Tổng xuất khẩu cho giai đoạn 2022-2023 thấp hơn, ở mức 182,57 triệu tấn, giảm 0,10 triệu tấn so với tháng Sáu. Tồn kho cuối vụ tăng 2,49 triệu tấn, lên 312,94 triệu tấn. Tại Ukraine, Bộ NN mỹ ước tính sản lượng bắp ở mức 25 triệu tấn và xuất khẩu ở mức 9 triệu tấn, tương đương so với tháng Sáu.

Bộ NN Mỹ cũng tăng sản lượng bắp của Brazil năm 2021-2022 ở mức 116 triệu tấn và sản lượng của Argentina là 53 triệu tấn.

Lúa mì

Giá lúa mì giảm mạnh sau một đợt bán kỹ thuật khiến hầu hết các giá các hợp đồng kỳ hạn giảm từ 4% đến 5%. Sự suy yếu lan tỏa từ các loại ngũ cốc khác, cộng với đồng Đô-la Mỹ tăng mạnh đã gây áp lực lên giá lúa mì.

Bộ NN Mỹ tăng ước tính sản lượng lúa mì lên 48,47 triệu tấn, tăng so với 47,27 triệu tấn trong báo cáo tháng Sáu và cao hơn mức ước tính trước báo cáo. Ước tính tồn kho cuối kỳ đối với lúa mì vụ mới ở mức 17,39 triệu tấn, tăng từ 17,06 triệu tấn vào tháng Sáu và gần với mức cao nhất của ước tính trước báo cáo. Tồn kho cuối kỳ đối với lúa mì vụ cũ không thay đổi so với ước tính của tháng Sáu là 17,96 triệu tấn.

Sản lượng lúa mì vụ Đông được dự báo ở mức 32,66 triệu tấn, tăng 2% so với dự báo ngày 01/06 nhưng giảm 6% so với năm 2021. Tính đến ngày 01/07, năng suất bình quân được dự báo ở mức 3,23 tấn/ha, giảm 0,01 tấn so với tháng trước và thấp hơn 0,15 tấn so với năng suất trung bình của năm ngoái là 3,38 tấn/ hecta.

Sản lượng lúa mì hạt cứng đỏ vụ Đông ước tính đạt 15,92 triệu tấn, tăng 1% so với tháng trước. Lúa mì hạt mềm đỏ vụ Đông ước tính đạt 10,23 triệu tấn.

Tồn kho lúa mì cuối vụ của thế giới ước tính tăng lên 267,52 triệu tấn trong tháng Bảy, so với 266,85 triệu tấn trong tháng Sáu, gần với các dự đoán trước báo cáo.

Tóm tắt báo cáo:

Chi tiết báo cáo: tại đây

www.qdfeed.com