Giá đậu nành kỳ hạn tháng 01/2024 chốt phiên giao dịch ngày 16/11 giảm 24,75 cent, ở mức 1.360,25 cent/bushel, giảm 27,50 cent so với mức cao nhất và tăng 6,50 cent so với mức thấp nhất. Giá đậu nành kỳ hạn tháng 03/2024 chốt phiên giảm 24,50 cent, ở mức 1.375 cent/bushel, tăng 7,0 cent so với mức thấp nhất và giảm 27,0 cent so với mức cao nhất.

Giá khô dầu đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên giảm 2,40 usd, ở mức 466,80 usd/short tấn, giảm 4,80 usd so mức cao nhất và tăng 13,40 usd so với mức thấp nhất.

Giá dầu đậu nành kỳ hạn tháng 12 chốt phiên giảm 1,42 cent, ở mức 51,63 cent/pound, giảm 1,43 cent so với mức cao nhất và tăng 0,08 cent so với mức thấp nhất.

Giá đậu nành giảm đáng kể do dự báo sẽ có mưa thuận lợi ở Brazil vào tuần tới, cùng với lực bán ra mạnh của một loạt các mặt hàng khác đã gây thêm áp lực giảm giá.

Bộ NN Mỹ cho biết các nhà xuất khẩu tư nhân đã xuất bán 220.000 tấn đậu nành cho một quốc gia chưa công bố, giao hàng trong năm tiếp thị 2023/2024.

Trong tuần kết thúc vào ngày 09/11, lượng xuất khẩu đậu nành tăng 144 triệu giạ (3.918.400 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 73,2 triệu giạ (~2 triệu tấn), cao hơn nhiều so với mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 1,755 tỷ giạ (47,76 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu đậu nành hiện đạt tổng cộng 1,035 tỷ giạ (28,17 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 21% so với một năm trước.

Lượng xuất khẩu khô dầu đậu nành hàng tuần được báo cáo ở mức 144.800 tấn, giao hàng trong năm tiếp thị 2023-2024.

Lượng xuất khẩu dầu đậu nành hàng tuần ở mức 3.400 tấn cho năm 2023-2024 và có một lượng bị hủy 400 tấn cho năm 2024-2025.

NOPA cho biết lượng đậu nành ép dầu trong tháng 10 cao hơn dự kiến, với 189,77 triệu giạ (5,16 triệu tấn), và là lượng ép dầu trong một tháng lớn nhất từ ​​trước đến nay. Tồn trữ dầu đậu nành giảm xuống chỉ còn 1,099 tỷ pound (498.500 tấn), giảm 28% so với một năm trước và là mức tồn trữ thấp nhất trong 9 năm, do nhu cầu sử dụng nhiên liệu sinh học tăng cao.

Bắp

Giá bắp vẫn giữ được đà tăng do số liệu xuất khẩu hàng tuần tốt hơn mong đợi.

Trong tuần kết thúc vào ngày 09/11, lượng xuất khẩu bắp tăng 71,2 triệu giạ (1.807.500 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 26,9 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 2,075 tỷ giạ (52,71 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu bắp hiện đạt tổng cộng 831 triệu giạ (21,11 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và tăng 33% so với một năm trước.

Sản lượng ethanol đạt 1,047 triệu thùng/ngày trong tuần kết thúc vào ngày 10/11, tăng 5.000 thùng/ngày so với tuần trước nhưng vẫn thấp hơn so với tuần ngày 27/10. Tồn trữ ethanol giảm 58.000 thùng, xuống còn 20,954 triệu thùng, và là mức thấp nhất kể từ ngày 20/12/2021.

Hội đồng ngũ cốc quốc tế (IGC) đã tăng nhẹ ước tính sản lượng bắp toàn cầu năm 2023/24 thêm 4 triệu tấn, đạt 1,223 tỷ tấn, chủ yếu do tiềm năng sản lượng tốt hơn ở Hoa Kỳ.

Lúa mì

Giá lúa mì giảm vì nhiều lý do, bao gồm thời tiết có mưa trên khắp vùng đồng bằng ở Hoa Kỳ, cùng với lượng tồn trữ toàn cầu dồi dào và sự giảm giá từ các mặt hàng khác.

Trong tuần kết thúc vào ngày 09/11, lượng xuất khẩu lúa mì tăng 6,5 triệu giạ (176.300 tấn) cho năm 2023-2024. Lượng xếp hàng xuất khẩu đạt 11,4 triệu giạ, thấp hơn mức cần thiết hàng tuần để đạt ước tính xuất khẩu 700 triệu giạ (19,05 triệu tấn) của Bộ NN Mỹ cho năm 2023-2024. Cam kết xuất khẩu lúa mì hiện đạt tổng cộng 437 triệu giạ (11,89 triệu tấn) cho năm 2023-2024 và giảm 7% so với một năm trước.

Hội đồng Ngũ cốc Quốc tế (IGC) đã nâng ước tính sản lượng lúa mì toàn cầu niên vụ 2023/24 thêm 73,5 triệu giạ, ở mức 28,917 tỷ giạ (787 triệu tấn) do sản lượng tăng ở Nga, Thổ Nhĩ Kỳ và Ukraine.

Nguồn cung lúa mì ở cả EU và Biển Đen vẫn dồi dào. Nhu cầu lúa mì của Mỹ, đặc biệt là nhu cầu trong mùa Đông khắc nghiệt, vẫn ở mức thấp.

Hôm thứ Năm, Philippines đã thầu mua 30.000 tấn lúa mì làm thức ăn chăn nuôi của Úc, trong khi Nhật Bản cũng mua 104.677 tấn lúa mì từ Úc, Canada và Mỹ.

www.qdfeed.com